Bảo tồn nghề liễn đối An Truyền

30/11/2020 10:32:00 AM
Theo nhà nghiên cứu Trần Đại Vinh: Liễn đối (hay đối liễn) là cách gọi chệch của từ “Liên đối”, là hai câu đối (chữ đối chữ, nghĩa đối nghĩa) thường được treo trang trọng nơi hai vị trí đối xứng trong nhà, trong các đền thờ. Liễn đối có thể viết bằng chữ Hán, chữ Nôm, được thể hiện trên chất liệu gỗ, giấy hoặc vải lụa.

 Nghệ nhân Huỳnh Lý rất nổi tiếng trong nghề làm liễn đối

Làng nghề của những người hiếu học

Làng An Truyền (tên dân gian là làng Chuồn) thuộc xã Phú An, Phú Vang, Thừa Thiên- Huế. Khách muốn đến thăm thì đi theo đường Phạm Văn Đồng, nối vào QL 49, từ thành phố về làng chỉ mất 15 phút .

Nghề làm liễn đối của dân làng An Truyền xuất phát từ truyền thống hiếu học, tuy đa số làm nghề nông, nhưng cũng có người học giỏi, đỗ đạt làm quan to trong triều Nguyễn. Tính hiếu học đã ảnh hưởng đến sự đam mê viết chữ đẹp, hiểu biết cái đẹp của nghệ thuật thư pháp; do đó phát huy một lối chơi tao nhã là treo liễn đối ngày Tết. Những gia đình biết nghề in liễn đối Tết, bắt đầu làm từ tháng Mười âm lịch, mỗi vụ in từ năm trăm đến vài nghìn bộ.

Theo sách “Đối liễn Hán, Nôm” (NXB Thuận Hóa - 2005), liễn đối sử dụng trong dịp khánh hỉ như mừng nhà mới, mừng thi đỗ, mừng thọ…thì nền màu đỏ, chữ đen hoặc nền vàng, chữ đỏ. Đối và liễn thờ được gia chủ treo ở vị trí áp vào tường phía trong cùng của gian thờ tự. Nội dung của bộ đối liễn rất quan trọng, văn bản chọn lọc, sao cho phù hợp với hoàn cảnh, địa vị của tổ tiên, hay tùy theo sự nghiệp của tôn tộc. Ngoài trưng bày, trang trí, nội dung liễn đối còn thể hiện những lời răn dạy con cháu về những giá trị đạo đức truyền thống, của tổ tông dòng họ; những điều mong muốn, sự an lạc, hạnh phúc và hoan hỷ trong gia tộc.

 Một bức đối chữ đại tự được mua về trang trí trong gia đình dịp Tết

Công phu trong cách làm

Nét độc đáo hàng trăm năm nay của nghề liễn đối làng An Truyền là được in mộc bản thủ công, nhưng sắc sảo từng chi tiết, tô màu tỉ mỉ, đóng khung công phu. Nó thuộc dòng tranh khắc in mộc bản dân gian, chỉ phổ biến trong giới trung lưu và nông dân miền Trung. Hầu hết nguyên liệu sử dụng giấy bản, giấy bồi, màu vẽ, kim tuyến rẻ tiền; vì vậy thời gian sử dụng ngắn, từ một đến hai năm, đến Tết nguyên đán lại thay mới. Giá bán rẻ hơn loại liễn đối làm bằng gỗ, lụa hay vải vóc.

Ngày xưa, sử dụng giấy dó thô do làng Đốc Sơ (nay phường Hương Sơ, TP. Huế) sản xuất, ngày nay lấy giấy báo cũ nhuộm màu rồi bồi thành tấm. Trường hợp gặp khách đặt hàng yêu cầu, nghệ nhân dùng vài loại giấy ngoại nhập như giấy điều, giấy trang kim, giấy xuyến chỉ.

Mua về phải nhuộm các màu đỏ, vàng hoặc xanh. Còn màu mua về hòa với hồ nấu lên cho dính, cũng có dùng bột điệp nhưng không để nguyên màu trắng óng ánh mà pha thêm màu xanh dương để có màu sáng dịu mắt. Liễn bông (in hoa) mỗi bộ gồm có bốn bức, họa tiết giống như bộ tranh tứ quý.

Liễn chữ gồm một đại tự và các câu đối. Theo nghệ nhân Huỳnh Thế (con trai cố nghệ nhân Huỳnh Lý) thì cách thực hiện bao gồm 2 công đoạn chính được thao tác bằng tay: trước hết in nét đen bằng cách ngửa ván lẫn úp ván (mộc bản) rồi phơi khô và tô màu. Nền tranh không quét bột điệp, mà dùng màu đỏ và màu lục viền quanh biên, phân cách bởi các đường kẻ hoặc hoa văn màu vàng. Trong nghề gọi là “nguyên tắc bồi giấy: lòng điều, kế lục, chỉ vàng”, riêng chữ thể hiện bằng màu đen. Một số họa tiết như ngũ quả, tứ linh, bát tiên, thập nhi chi, lưỡng long tranh châu, lưỡng long triều nguyệt… được các nghệ nhân phối màu phù hợp cá tính.

Thiết nghĩ đã đến lúc cần phải có kế hoạch bảo tồn nghề liễn đối An Truyền, trước khi các nghệ nhân cao tuổi mất đi.

Vũ Hào/ langvietonline.vn