Đình làng tôi

26/07/2019 09:00:00 AM
Đình làng tôi, nơi đây các thế hệ nối tiếp thế hệ đã tới dâng hương, rồi lần lượt ra đi, khuất bóng ở nơi xa thẳm… Chỉ còn lại mái đình - mái đình rêu phong cổ kính và những chiến công vang dội núi sông của các bậc thánh nhân - là mãi mãi ở lại; ở lại để khắc sâu truyền thống dựng nước và giữ nước hào hùng của dân tộc; ở lại để nhắn nhủ con cháu Lạc Hồng rằng, hãy đoàn kết một lòng để giữ gìn trọn vẹn núi sông bờ cõi...

 Đình làng Việt (Ảnh minh họa)

Những tháng năm trôi dạt trên đất lạ xứ người, mỗi khi chạnh lòng nhớ về quê cha đất tổ, thì một trong những hình ảnh thân yêu nhất, nồng đượm nhất, khắc rõ nét nhất trong trái tim tôi là đình làng. Mái đình làng tôi vút cong thẩm mỹ, đứng uy nghi dưới bóng đa cổ thụ và long lanh bên giếng đất đầu làng. Đã bao năm nay, nó làm tôi mong nhớ đến nao lòng.

Đình làng tôi dựa lưng vào khu đất cao, ngoảnh mặt hướng Nam, nhìn ra cánh đồng Bầu bát ngát thẳng cánh cò bay. Tuổi thơ của tôi đã gửi gắm lại nơi này biết bao kỷ niệm êm đềm. Một trưa đi cày về, thấy tôi ngồi hí hoáy vẽ cảnh đình, bác họ tôi - người duy nhất còn lại trong làng biết chữ Nho - gọi tôi vào nhà, mang cho xem bản “Sắc Rồng” mà vua đã tặng phong cho “Tứ vị đại vương”- tức Thành Hoàng làng tôi.

Chuyện rằng, cái thời mà đất trời của trăm họ Lạc Việt còn đang ở buổi sớm mai mờ mịt, thì nhà Tần bên Trung Quốc khởi 50 vạn tinh binh sang xâm lược nước ta. Lúc này Vua Hùng đã già yếu, được sự đồng lòng của trăm họ, nhà Vua đã nhường quyền lãnh đạo kháng chiến cho Thục Phán. Vậy là nước Âu Lạc ra đời. Nghe theo lời hiệu triệu cứu nước của Vua, dưới sự chỉ huy của Tứ Thánh, làng Phó Hoa quê tôi cùng toàn thể nhân dân trong vùng đứng lên chống giặc.

Tứ Thánh, thực ra là bốn người con trai của ông Đinh Công Bách và bà Tô Nương Nghi ở  Phó Hoa xã. Khi sinh ra cả bốn ông đã có tướng mạo khác người thường: “Diện tựa hoa xuân sắc/Nhỡn như Bắc đẩu tinh”. Lớn lên, do khí chất thông minh lại chịu khó học hành, các ông là người thông kim bác cổ - văn võ song toàn, đều là lạc tướng của Vua Hùng. Trước hoạ xâm lăng của giặc Tần, các ông ra lập đàn ở Tây tỉnh (giếng đất phía tây làng Cầu) - nơi ngày xưa song thân đã ra cầu tự - cắt máu ăn thề để tỏ tấm lòng trung hiếu của mình trước vận mệnh của đất nước.

Khi quân Tần tới nơi, tướng giặc sai người đem ngọc ngà châu báu, dâng biếu các ông để dụ hàng. Nhưng chúng không thể mua chuộc được tấm lòng son và ý chí sắt đá của bốn vị Lạc tướng. Ngày đêm họ luyện tập võ nghệ cho các trai tráng và hướng dẫn nhân dân rào làng kháng chiến. Nhưng quân giặc quá đông, chúng tiến quân theo cả đường thuỷ lẫn đường bộ và rất tàn bạo, nên theo lệnh nhà Vua, họ phải rút về dãy Sơn Nam để bảo toàn lực lượng và chuẩn bị kháng chiến lâu dài. Người anh cả là Liêm Công và người em út là Bùi Công, chọn một số nghĩa sỹ ở lại bám làng chiến đấu, cản bước tiến của quân thù. Nghĩa quân đã chiến đấu với một tinh thần trung dũng quên thân. Họ cầm chân giặc được đến ngày hôm sau thì lần lượt hy sinh. Hai anh em nắm tay nhau, nhìn đất mẹ lần cuối, rồi “hoá” ngay ở giếng nước đầu làng.

Quân Tần truy kích tiếp đến đồng Bầu thì bị nghĩa quân của các ông Vĩnh Công và Dũng Công chặn lại. Một trận huyết chiến không cân sức nữa lại diễn ra vô cùng ác liệt suốt một ngày một đêm. Giặc đông như kiến cỏ, vây hãm quá dày, hai ông và nghĩa quân không thể mở được đường máu về núi. Quyết không chịu sa vào tay giặc, bên dòng suối quê hương, hai ông đã rút dao mang bên người ra đâm cổ tự vẫn… Bốn ông “hoá” xong thì trời vần vũ đổ mưa, sấm chớp tối đen trong ba ngày.

Mười năm sau, khi cuộc kháng chiến chống Tần thắng lợi, trở về làng, dân quê tôi đã rước bài vị của các ngài về lập bàn thờ. Sau này được Vua cấp sắc, phong là Linh Ứng Đại Vương và nhân dân đã tạc tượng, xây đình để thờ cúng. Cho đến tận ngày nay, các ngài vẫn là những người “hộ quốc tỳ dân” trong vùng. Đó là Phúc Thần của làng tôi.

*

Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, quê tôi thuộc vùng tề (vùng bị chiếm đóng). Địch lập bốt gác dày đặc, chạy suốt từ ga Chợ Tía tới tận Vân Đình. Chúng thay nhau lùng sục suốt ngày đêm để vây bắt cán bộ và du kích. Đã từ rất lâu trước đó, người Pháp đã ra điều luật cấm dân An Nam tụ tập và luyện tập võ nghệ. Vậy mà ngay từ trước năm 1945, đình thờ Tứ Thánh làng tôi vẫn là nơi lui tới của một ông thầy dạy võ. Thanh niên trong tổng thường bí mật hẹn nhau đến đây nghe ông thầy truyền thụ võ học.

Cuối năm 1953, để phối hợp với chiến dịch Điện Biên Phủ, bộ đội chủ lực về vùng quê tôi nhổ một loạt bốt địch. Một lần có bộ đội hành quân qua làng, thấy người cán bộ chỉ huy dẫn theo liên lạc viên vào tìm bà cụ Nheo ngày xưa đã đào hầm nuôi giấu mình. Mọi người nhận ra đó chính là thầy dạy võ năm xưa. Về thăm lại làng tôi lần ấy, ông đã là cán bộ chỉ huy cấp tiểu đoàn. Lúc đó mọi người mới biết, ngày xưa ông là người hoạt động Cách mạng. Ngày ấy, đình thờ Tứ Thánh bên gốc đa đầu làng đêm đêm vẫn được thầy chọn làm nơi dạy võ và tuyên truyền chống Pháp cho tầng lớp thanh niên trong vùng. Chú ruột tôi cùng ông Nguyễn Hữu Thụ bên Hồng Minh, đã được thầy dìu dắt đi làm cách mạng... Ông Thụ sau này làm tới chức Chủ tịch UBND tỉnh Hà Tây. Con đường làm Cách mạng của họ đều phát tiết nhờ tinh hoa từ ngôi đình thiêng liêng của quê nhà.

Năm 1967, làng tôi có bộ đội về. Đó là một trung đội súng DKZ. Họ còn rất trẻ và đến từ mọi miền đất nước. Sân đình làng tôi lại được các anh chọn làm nơi luyện tập võ thuật và đắp sa bàn. Trên sân đình, sáng nào cũng vậy, khi mà bếp mọi nhà bắt đầu đỏ lửa cho một ngày mới, thì lũ trẻ chúng tôi không hẹn mà gặp, lại kéo nhau ra xem các anh dàn quân theo đội hình 9630. Người chỉ huy gằn giọng: “Mười sáu động tác võ thể dục bắt đầu! Một... hai…”. Sau đó đến bài tập đánh giáp lá cà bằng tiểu liên AK. Mỗi lần đâm lê về phía trước, cả trung đội lại đồng thanh hô “giết! giết!” vang động cả xóm làng… Thời gian trôi đi, mấy năm sau, một trong những người lính đó quay lại làng (sau này, anh cưới bà chị họ tôi), kể: Sau trận Mậu Thân 68, trung đội đã hy sinh gần hết! Câu nói ấy làm tôi đau đến tận bây giờ. Nhiều đêm tôi nằm mơ thấy các anh về, lại xôn xao làng trên xóm dưới. Sáng ra lại vẫn như còn nghe thấy đâu đây âm vang của “Sát Thát”, tiếng hô như từ ngàn năm uy vũ Lý - Trần xưa vọng về. Lại ra sân đình, dưới gốc đa cổ thụ, nơi ngày xưa vẫn ngồi xem các anh họp cuối tuần, và tôi như nghe lại được những âm thanh trầm hùng đang cất lên từ những lồng ngực yêu đời của những người lính trẻ:

“Ta là người chiến sĩ
Nhẹ bước chân xa vời
Như bầy chim tung cánh
Bay khắp bốn phương trời...”

Lúc này, chiến tranh diễn ra ngày càng ác liệt trên cả hai miền đất nước. Nó như một con quái vật khổng lồ cuốn đi theo mình nhiều thế hệ trai làng ra mặt trận. Khi trung đội DKZ từ biệt dân lên đường đi chiến đấu, thì cũng là lúc trang lứa anh em chúng tôi lớn lên. Sứ mệnh bảo vệ và giải phóng Tổ quốc lại tiếp tục được trao vào tay lớp trẻ. Trước khi lên đường chiến đấu dưới lá cờ “vinh quang của Tổ Quốc”, các cụ bô lão đã dẫn những thanh niên nhập ngũ đến làm lễ ở đình làng. Chúng tôi thề sẽ quyết tâm noi theo tấm gương kiên trung, bất khuất của các bậc tiên liệt “Dù gian lao khổ hạnh không sờn lòng, vào sống ra chết không nản chí” để xứng đáng với truyền thống dựng nước và giữ nước của cha ông. Trong giây phút thiêng liêng ấy, máu trong người chúng tôi trào dâng rạo rực. Tượng Tứ Thánh uy nghi ngồi đó, ánh mắt hiền từ của các ngài toả sáng bao dung trong khói hương trầm mặc. Các bậc tiên liệt ấy như những nhân chứng sống của lịch sử, từ ngàn đời nay vẫn dõi theo lớp lớp cháu con lên đường ra mặt trận, gìn giữ non sông gấm vóc. Lúc ấy, hồn phách anh hùng hào kiệt, từ thời dựng nước và giữ nước của cha ông tự ngàn xưa như đang hiển linh; tất cả những chiến công oanh liệt của họ như đang hiện về trước mắt chúng tôi -những người lính hậu duệ của bốn ngàn năm sau…

Năm người con thân yêu của xóm Cầu bé nhỏ ra đi ngày ấy thì có ba người nằm xuống mãi mãi không trở về. Họ đã trung trinh giữ trọn lời thề với Tứ Thánh làng tôi và với cả non sông đất nước.

*

Hơn hai mươi năm sống xa Tổ quốc, trên đường về, tôi đã tận mắt chứng kiến sự thay da, đổi thịt của quê tôi cũng như của đất nước. Nhưng làng tôi thì vẫn vậy, nó vẫn hiền hòa dưới mái đình cổ kính rêu phong, vẫn cây đa cổ thụ toả bóng mát trưa hè, vẫn những cô thôn nữ chiều chiều ra giếng làng lấy nước. Những giây phút thanh bình và nên thơ ấy, tôi không tìm thấy đâu như ở quê mình.

Để có được những giá trị cuộc sống như ngày nay mà cháu con đang hưởng, máu của biết bao anh hùng liệt sỹ đã đổ xuống đất này. Đình làng tôi, nơi đây các thế hệ nối tiếp thế hệ đã tới dâng hương, rồi lần lượt ra đi, khuất bóng ở nơi xa thẳm… Chỉ còn lại mái đình - mái đình rêu phong cổ kính và những chiến công vang dội núi sông của các bậc thánh nhân - là mãi mãi ở lại; ở lại để khắc sâu truyền thống dựng nước và giữ nước hào hùng của dân tộc, trong trái tim và khối óc những người hậu thế; ở lại để nhắn nhủ con cháu Lạc Hồng rằng, hãy hướng về tương lai của đất nước, đoàn kết một lòng để giữ gìn trọn vẹn núi sông bờ cõi và cùng nhau đi tới ấm no, hạnh phúc muôn đời.

Halle/Saale – CHLB Đức 2019
Nguyễn Công Tiến