Cận kim thời đại – Nhà Nguyễn. Chương II. Thánh Tổ (Phần 3)

28/11/2005 04:34:16 PM

(Tiếp theo kỳ trước)

QUYỂN V
CẬN KIM THỜI ĐẠI

NHÀ NGUYỄN
(1802 – 1945)

CHƯƠNG II
THÁNH TỔ
(1820 – 1840)
Niên hiệu: Minh Mệnh

8. LƯƠNG BỔNG CỦA CÁC QUAN VIÊN. Năm Kỷ Hợi (1839) là năm Minh Mệnh thứ 20, vua Thánh tổ định lương bổng đồng niên và tiền xuân phục của các quan viên.

Chánh nhất phẩm: tiền 400 quan, gạo 300 phương, tiền xuân phục 70 quan.

Tòng nhất phẩm: tiền 300 quan, gạo 250 phương, tiền xuân phục 60 quan.

Chánh nhị phẩm: tiền 250 quan, gạo 200 phương, tiền xuân phục 50 quan.

Tòng nhị phẩm: tiền 180 quan, gạo 150 phương, tiền xuân phục 30 quan.

Chánh tam phẩm: tiền 150 quan, gạo 120 phương, tiền xuân phục 20 quan.

Tòng tam phẩm: tiền 120 quan, gạo 90 phương, tiền xuân phục 16 quan.

Chánh tứ phẩm: tiền 80 quan, gạo 60 phương, tiền xuân phục 14 quan.

Tòng tứ phẩm: tiền 60 quan, gạo 50 phương, tiền xuân phục 10 quan.

Chánh ngũ phẩm: tiền 40 quan, gạo 35 phương, tiền xuân phục 9 quan.

Tòng ngũ phẩm: tiền 35 quan, gạo 30 phương, tiền xuân phục 8 quan.

Chánh lục phẩm: tiền 30 quan, gạo 25 phương, tiền xuân phạc 7 quan.

Tòng lục phẩm: tiền 25 quan, gạo 22 phương, tiền xuân phục 6 quan.

Chánh thất phẩm: tiền 25 quan, gạo 20 phương, tiền xuân phục 5 quan.

Tòng thất phẩm: tiền 22 quan, gạo 20 phương, tiền xuân phục 5 quan.

Chánh bát phẩm: tiền 20 quan, gạo 18 phương, tiền xuân phục 5 quan.

Tòng bát phẩm: tiền 20 quan, gạo 18 phương, tiền xuân phục 4 quan.

Chánh cửu phẩm: tiền 18 quan, gạo 16 phương, tiền xuân phục 4 quan.

Tòng cửu phẩm: tiền 18 quan, gạo 16 phương, tiền xuân phục 4 quan.

Lại dịch binh tượng: mỗi tháng tiền một quan, gạo một phương.

Hậu bổ: mỗi tháng tiền 2 quan, gạo 2 phương.

Từ nhất phẩm đến tam phẩm, mỗi năm hai kỳ trình giấy lĩnh bổng; tự tứ phẩm đến thất phẩm, mỗi năm 4 lần, đến tháng cuối mùa xuân, hạ, thu, đông, trình giấy lĩnh bổng; tự bát cửu phẩm trở xuống, thi cứ mỗi tháng đến lĩnh một kỳ.

Tiền lương bổng của các quan viên lúc bấy giờ mà so sánh với bây giờ, thì thật là ít ỏi quá. Nhưng mà chắc là sự ăn tiêu thủa trước rẻ rúng không biết bao nhiêu. Nhà vua lại sợ những phủ huyện thiếu thốn mà nhũng lạm của dân, cho nên mỗi năm lại phát thêm tiền dưỡng liêm.

9. TIỀN DƯỠNG LIÊM. Tri phủ: tối yếu khuyết cho 50 quan, yếu khuyết 40 quan, khuyết 30 quan, giản khuyết 25 quan.

Đồng tri phủ: tối yếu khuyết cho 50 quan, yếu khuyết 40 quan, khuyết 30 quan, giản khuyết 25 quan.

Tri huyện, tri châu: tối yếu khuyết cho 40 quan, yếu khuyết 30 quan, trung khuyết 25 quan, giản khuyết 20 quan.

10. SỰ HỌC HÀNH THI CỬ. Việc trị nước cần phải có văn học, cho nên từ đời vua Thế tổ cũng đã lưu ý về việc mở mang sự học hành. Đến đời vua Thánh tổ thì ngài lại trọng sự học lắm, ngài thường nói với các quan rằng: Đạo trị nước thì trước hết cần phải gây lấy nhân tài. Bởi vậy ngài có lòng yêu dùng những người có văn học, cho các hương cống vào làm hành tẩu ở trong lục bộ, để học tập việc chính trị. Mở Quốc tử giám cho các giám sinh được lương bổng ở ăn học.

Đời vua Thế tổ thì chỉ có thi Hương mà thôi, đến năm Nhâm Ngọ (1822) là năm Minh Mệnh thứ 3, mới mở khoa thi Hội, thi Đình để lấy tiến sĩ, đến năm Minh Mệnh thứ 10 (1829) nhà vua lại cho những người trúng cách, nhưng không cập phân được đỗ phó bảng. Phó bảng khởi đầu có từ đấy.

Nguyên trước cứ 6 năm một khoa thi, nay đổi lại làm 3 năm một khoa, cứ năm Tí, Ngọ, Mão, Dậu, thi Hương; năm Thìn, Tuất, Sửu, Mùi, thi Hội, thi Đình.

Phép thi thì vẫn theo như đời Gia Long, nghĩa là kỳ đệ nhất: kinh nghĩa; kỳ đệ nhị: tứ lục; kỳ đệ tam: thi phú; kỳ đệ tứ: văn sách. Trước ai đỗ tam trường, gọi là sinh đồ, ai đỗ tứ trường gọi là hương cống, nay đổi sinh đồ là tú tài, hương cống là cử nhân.

Vua Thánh tổ là ông vua thông minh, ngài vẫn biết sự học của nước ta sai lầm, những sĩ phu trong nước chỉ học theo lối cử nghiệp, nghĩa là cốt học lấy thi đỗ, chứ không mấy người có thực học. Thường ngài nói chuyện với các quan rằng: "Lâu nay khoa cử làm cho người ta sai lầm. Trẫm nghĩ văn chương vốn không có qui củ nhất định mà nay những văn cử nghiệp chỉ câu nệ cái hủ sáo, khoe khoang lẫn với nhau, biệt lập mỗi nhà một lối, nhân phẩm cao hay thấp do tự đó, khoa tràng lấy hay bỏ cũng do tự đó. Học như thế thì trách nào nhà nhân tài chẳng mỗi ngày một kém đi. Song tập tục đã quen rồi, khó đổi ngay được, về sau nên dần dần đổi lại". Vua Thánh tổ thật là biết rõ cái tật của những người đi học ở trong nước ta, nhưng chỉ vì thói quen lâu ngày khó bỏ. Vả lại dẫu có muốn đổi, thì dễ thường cũng không biết đổi ra thế nào cho hay hơn được, cho nên sự học của mình vẫn nguyên như cũ.

11 SÁCH VỞ. Vua Thánh tổ mới lên ngôi, đã lo việc làm sách vở; ngài đặt ra Quốc sử quán  để góp nhặt những chuyện làm quốc sử. Ngài lại lưu ý về việc tưởng lệ cho những người làm ra sách vở. Bởi vậy, ngài xuống chiếu: hễ ai tìm được sách cũ, hay làm la sách mới, thì được ban thưởng. Tự đó ông Trịnh Hoài Đức dâng sách: Gia Định thông chí  và sách Minh bột di hoán văn thảo; ông Hoàng Công Tài  dâng một bản Bản triều ngọc phả, 2 bản Kỷ sự; ông Cung Văn Hi người ở Quảng Đức dâng 7 quyển Khai quốc công nghiệp diễn chí; ông Nguyễn Đình Chính người Thánh Hóa dâng 34 quyển Minh lương khải cáo lục;  ông Vũ Văn Tiêu người Quảng Nghĩa, dâng một quyển Cô sự biên lục.

Vua Thánh tổ lại sai quan soạn xong bộ Liệt thánh thực lục tiền biên,  bộ Khâm định tiễu bình lưỡng kỳ phỉ khấu phương lược, còn sách của ngài soạn ra có hai bộ là Ngự chế tiễu bình Nam kỳ tặc khấu thi tập và Ngự chế thi tập.

12. VIỆC SỬA PHONG TỤC. Mấy năm về cuối đời vua Thánh tổ trong nước lắm giặc giã, phong tục thành ra kiêu bạc, dân sự lắm người cờ bạc rượu chè và hay mê hoặc những tà giáo. Nhà vua lấy sự ấy làm lo, bèn soạn ra 10 điều huấn dụ, ban la mọi nơi, để dạy bảo ngu dân.

1. Đôn nhân luân: trọng tam cương ngũ thường.

2. Chính tâm thuật: làm việc gì cũng cốt phải giữ bụng dạ cho chính đính trong sạch.

3. Vụ bản nghiệp:  giữ bổn phận chăm nghề nghiệp của mình.

4. Thượng tiết kiệm: chuộng đường tiết kiệm.

5. Hậu phong tục: giữ phong tục cho thuần hậu.

6. Huấn tử đệ : phải dạy bảo con em.

7. Sùng chính học: chuộng học đạo chính.

8. Giới dâm thắc:  răn giữ những điều gian tà dâm dục.

9. Thận pháp thủ: cẩn thận mà giữ pháp luật.

10. Quảng thiện hạnh: rộng sự lành.

Năm Bính Thân (1836) là năm Minh Mệnh thứ 17, có quan giám sát ngự sử là Bùi Mậu Tiên dâng sớ tâu rằng: ''Các làng ở ngoài Bắc thành nhiều kẻ cường hào trái phép, mà dân thì biếng nhác chỉ cờ bạc rượu chè; việc tế lễ quỉ thần thì hay dùng cách xa xỉ, việc táng tế thì chuộng đường xa hoa, thân chí có kẻ bán sạch cửa nhà cơ nghiệp để đền nợ miệng, thực là trái với nghĩa tương bảo tương lân''.

Vua Thánh tổ bèn xuống chiếu trách cứ các quan địa phương phải đem những điều huấn dụ đã ban ra trước mà khuyên bảo dân sự, và phải chuyển sức cho tổng lý: hễ thấy ai biếng nhác rong chơi cờ bạc rượu chè, thì phải cấm chỉ đi. Những ké hào cường trong làng mà ỷ thế hống hách điêu toa kiện tụng, chống cưỡng với quan trên, dậm dọa kẻ bình dân, thì phải theo phép mà trừng trị. Còn những lệ thờ thần và lễ tang tế thì Lễ bộ đã định ra phép tắc hễ ai không tuân theo thì phải tội.

13. NHÀ DƯỠNG TẾ. Không những là vua Thánh tổ chỉ lo việc dạy dân mà thôi, ngài lại thương đến những kẻ nghèo khổ, vậy nên ngài truyền cho các quan ở các trấn ngoài Bắc thành được quyền lấy tiền kho mà lập một sở dưỡng tế: hễ những kẻ quan quả, cô độc, và kẻ tàn tật không có nơi nương nhờ, phải đến ở đó, thì mỗi ngày cấp cho mỗi tên 20 đồng tiền và nửa bát quan đồng gạo.

14. VIỆC ĐINH ĐIỀN VÀ THUẾ MÁ. Thuế đinh và thuế điền thì đại khái cũng theo như đời vua Thế tổ đã định. Chỉ có năm Bính Thân (1836) là năm Minh Mệnh thứ 17, đất Nam kỳ đạc điền xong, tính ra được 630.075 mẫu và định lại các thứ thuế điền thổ ở miền ấy. Còn như số dân đinh và điền thổ trong nước, thì cứ theo sổ bộ tổng cộng lại được 970.516 suất đinh và 4.063.892 mẫu ruộng và đất.

Những dân Tàu sang thành lập hương ấp ở nước Nam ta gọi là Minh hương, thì có lệnh mỗi người đồng niên phải nộp hai lạng bạc và được trừ giao dịch. Những người lão hạng và tàn tật thì phải chịu một nửa.

Còn những người nhà Thanh sang buôn bán ở nước Nam, phàm người nào mà có vật lực thì đồng niên phải đóng 6 quan năm tiền; ai không có vật lực thì phải nộp một nửa, hạn cho 3 năm, thì chiếu lệ thu cả thuế.

Nhà vua lại đặt lệ đánh thuế muối. Cứ mỗi ruộng muối đồng niên phải nộp bằng muối từ 6 phương cho đến 10 phương.

Mỗi phương nộp bằng tiền thì phải từ 3 tiền cho đến 4 tiền 30 đồng.

Còn các thứ thuế ngỏ, thuế sản vật v.v... thì đại khái cũng theo lệ đời vua Thế tổ đã định, chứ không thay đổi mấy tí.

15. VIỆC VÕ BỊ. Khi vua Thánh tổ lên nối nghiệp làm vua, thì trong nước đã được yên trị, nhưng ngài vẫn biết việc trị nước cần phải có võ bị, cho nên thường thường ngài vẫn có dụ truyền bảo rằng các quan phải luyện tập binh mã để phòng khi hữu sự.

Ở những nơi hiểm yếu thì lập đồn ải, ởcác cửa bể và các đảo thì lập pháo đài. Và lại làm tàu đồng, tập thủy quân để phòng giữ mặt bể.

Binh chế thì có bộ binh, thủy binh, tượng binh, kỵ binh và pháo thủ binh.

Bộ binh thì có kinh binh và cơ binh. Kinh binh chia ra làm doanh, vệ, đội, hoặc để đóng giữ ở kinh thành, hoặc sai đi đóng giữ các tỉnh. Mỗi doanh có 5 vệ, mỗi vệ có 19 đội, mỗi đội có 50 người, có suất đội và đội trưởng cai quản.

Những binh khí của mỗi vệ, thì có hai khẩu súng thần công, 200 khẩu điểu thương và 21 ngọn cờ:

Cơ binh là lính riêng của từng tỉnh, cũng chia ra làm cơ, làm đội. Cơ thì có quản cơ, mă đội thì có suất đội cai quản.

Tượng quân chia ra thành đội, mỗi đội là 40 con voi. Số voi ở Kinh thành 150 con, ở Bắc thành 110 con, ở Gia Định thành 75 con, ở Quảng Nam 35 con, ở Bình Định 30 con, ở Nghệ An 21 con, ở Quảng Bình, Quảng Nghĩa, Thanh Hóa mỗi nơi 15 con, Quảng Trị, Phú Yên, Bình Thuận, Ninh Bình mỗi nơi 7 con.

Thủy quân có 15 vệ, chia ra làm 3 doanh, mỗi doanh có quan chưởng vệ quản lĩnh, và có quan đô thống coi cả 3 doanh.

Vua Thánh tổ vẫn biết rằng nước ta ở dọc bờ bể thủy binh là việc rất yếu trọng cho sự phòng bị. Thường ngài bắt quan đem binh thuyền ra để luyện tập.

Đại khái việc binh cơ, ngài không bỏ trễ chút nào. Ngài lập toán giáo dưỡng binh, để cho con các quan võ, từ suất độ trở lên ai muốn tình nguyện vào học, thì cho lương bổng, và cử quan đại thần ra dạy võ nghệ.

Còn như khi nào có quân lính đi đâu, thì vua đặt lệ sai mấy người y sinh đi theo để điều hộ.

Tuy nhà vua muốn lưu ý về việc binh lính, nhưng người mình lúc bấy giờ ai cũng trọng văn khinh võ, bình nhật không ai lo gì đến việc quân lính khí giới. Hễ có lâm sự thì mới rối lên. Dẫu rằng nhà vua nay có chỉ dụ ra tập binh, mai có chỉ dụ ra tập trận mặc lòng, các quan chỉ làm cho xong việc, rồi lại bỏ mặc bọn quản đội làm thế nào thì làm. Thành ra quân số ở trong sổ sách thì nhiều, mà thế lực thì vẫn không đủ: ấy là về đời vua Thánh tổ mà còn thế, huống chi đến những đời sau, lại còn suy nhược hơn nữa.

(Xem tiếp kỳ sau)