Quyển III: Tự chủ thời đại - Chương I + II

07/03/2005 09:00:30 AM

(Tiếp theo kỳ trước)

Chương I: Nhà Ngô (939 - 965)

Chương II: Nhà Đinh (968 - 980)

Chương I

NHÀ NGÔ (939 – 965)

I. 1. TIỀN NGÔ VƯƠNG (939 – 944). Năm Kỷ Hợi (939) Ngô Quyền xưng vương, đóng đô ở Cổ Loa (thuộc huyện Đông Anh, tỉnh Phúc Yên). Ngô Vương đặt quan chức, chế triều nghi, định phục sắc và chỉnh đốn việc chính trị trong nước, chí muốn dựng nghiệp lâu dài, nhưng chỉ làm vua được có 6 năm, đến năm Giáp Thìn (944) thì mất, thọ 47 tuổi.

2. DƯƠNG TAM KHA (945 – 950). Ngô Vương trước lấy con Dương Diên Nghệ là Dương Thị lập làm vương hậu; đến lúc mất, Vương ủy thác con là Ngô Xương Ngập cho Dương Tam Kha là em Dương hậu. Dương Tam Kha bèn cướp lấy quyền của cháu, tự xưng là Bình Vương.

Ngô Xương Ngập thấy biến, chạy trốn sang Nam Sách (thuộc Hải Dương) vào ẩn ở nhà Phạm Lịch Công ở Trà Hương (huyện Kim Thành). Tam Kha sai quân đi đuổi bắt, Phạm Lịch Công đem Ngô Xương Ngập giấu trong núi. Dương Tam Kha bắt em Ngô Xương Ngập là Ngô Xương Văn nuôi làm con nuôi.

Năm Canh Tuất (950) có người ở tại thôn Thái Bình (thuộc Sơn Tây) làm loạn. Dương Tam Kha sai Ngô Xương Văn cùng với tướng là Dương Cát Lợi và Đỗ Cảnh Thạc đem quân đi đánh. Đi đến Từ Liêm, Ngô Xương Văn mưu với hai tướng đem quân trở về bắt Dương Tam Kha.

Ngô Xương Văn nghĩ tình cậu cháu không nỡ giết, chỉ giáng xuống là Trương Dương Công.

3. HẬU NGÔ VƯƠNG (950 – 965). Ngô Xương Văn bỏ Dương Tam Kha đi rồi, xưng là Nam Tấn Vương và sai người đến làng Trà Hương rước anh là Ngô Xương Ngập về cùng coi việc nước. Ngô Xương Ngập về xưng là Thiên Sách Vương. Cả hai anh em làm vua, sử gọi là Hậu Ngô Vương.

Làm vua được ít lâu, Thiên Sách Vương đã toan giữ lấy quyền một mình, nhưng đến năm Giáp Dần (954) thì mất.

Thế lực nhà Ngô bấy giờ mỗi ngày một kém, giặc giã nổi lên khắp mọi nơi. Nam Tấn Vương phải thân chinh đi đánh dẹp. Khi đi đánh giặc ở hai thôn Thái Bình, Vương không may bị tên bắn chết. Bấy giờ là năm Ất Sửu (965), Nam Tấn Vương làm vua được 15 năm.

II. THẬP NHỊ SỨ QUÂN (945 – 967). Từ khi Dương Tam Kha tiếm vị rồi, những người thổ hào ở các nơi như bọn Trần Lãm, Kiều Công Hãn... đều xướng lên độc lập, xưng là Sứ quân. Về sau Nam Tấn Vương đã khôi phục được nghiệp cũ, nhưng các Sứ quân cũng không chịu về thần phục. Bởi vậy nhà vua cứ phải đi đánh dẹp mãi mà không yên được. Đến khi Nam Tấn Vương bị giặc bắn chết, thì con Thiên Sách Vương là Ngô Xương Xí lên nối nghiệp, nhưng thế nhà vua lúc ấy suy nhược lắm, không ai phục tùng nữa. Ngô Xương Xí về đóng giữ ở đất Bình Kiều. Tướng nhà Ngô là Đỗ Cảnh Thạc cũng giữ một chỗ xưng là Sứ quân.

Lúc bấy giờ trong nước có cả thảy 12 Sứ quân, gây ra cảnh nội loạn kéo dài đến hơn 20 năm. Mười hai Sứ quân là:

1. Ngô Xương Xí giữ Bình Kiều (nay là làng Bình Kiều, Khoái Châu, Hưng Yên).

2. Đỗ Cảnh Thạc giữ Đỗ Động Giang (thuộc huyện Thanh Oai).

3. Trần Lãm, xưng là Trần Minh Công giữ Bố Hải Khẩu (Kỳ Bố, tỉnh Thái Bình).

4. Kiều Công Hãn, xưng là Kiều Tam Chế giữ Phong Châu (huyện Bạch Hạc).

5. Nguyễn Khoan, xưng là Nguyễn Thái Bình giữ Tam Đái (phủ Vĩnh Tường).

6. Ngô Nhật Khánh, xưng là Ngô Lãm Công giữ Đường Lâm (Phúc Thọ, Sơn Tây).

7. Lý Khuê, xưng là Lý Lang Công giữ Siêu Loại (Thuận Thành).

8. Nguyễn Thủ Tiệp, xưng là Nguyễn Lịch Công giữ Tiên Du (Bắc Ninh).

9. Lữ Đường, xưng là Lữ Tá Công giữ Tế Giang (Văn Giang, Bắc Ninh).

10. Nguyễn Siêu, xưng là Nguyễn Hữu Công giữ Tây Phù Liệt (Thanh Trì, Hà Đông).

11. Kiều Thuận, xưng là Kiều Lịch Công giữ Hồi Hồ (Cấm Khê, Sơn Tây).

12. Phạm Bạch Hổ, xưng là Phạm Phòng Át giữ Đằng Châu (Hưng Yên).

Những Sứ quân ấy cứ đánh lẫn nhau, làm cho dân gian khổ sở. Sau nhờ có ông Đinh Bộ Lĩnh ở Hoa Lư đem quân đi đánh, mới dẹp xong loạn Sứ quân, thu giang sơn về một mối và lập nên cơ nghiệp nhà Đinh.

Chương II

NHÀ ĐINH (968-980)

1. ĐINH TIÊN HOÀNG (968-979). Đinh Bộ Lĩnh(1) là người ở Hoa Lư động (huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình), con ông Đinh Công Trứ làm thứ sử ở Hoan Châu về đời Dương Diên Nghệ và đời Ngô Vương Quyền. Đinh Công Trứ mất sớm, Bộ Lĩnh theo mẹ về quê ở, thường đi chơi với trẻ chăn trâu bò, bắt chúng khoanh tay làm kiệu để ngồi cho chúng rước và lại lấy bông lau làm cờ bày trận đánh nhau. Trẻ xứ ấy đứa nào cũng nể, tôn lên làm anh. Đến lúc khôn lớn lên, dân làng ở đó theo phục rất nhiều, nhưng sau vì không hoà với chú, cho nên Bộ Lĩnh cùng với con là Liễn sang với sứ quân Trần Minh Công ở Bố Hải khẩu (phủ Kiến Xương, Thái Bình).

Trần Minh Công thấy Đinh Bộ Lĩnh người khôi ngô, có chí khí nên đem lòng yêu mến, cho được giữ binh quyền. Đến khi Trần Minh Công mất, Đinh Bộ Lĩnh đem quân về giữ Hoa Lư, chiêu mộ những người hào kiệt, hùng cứ một phương. Năm Tân Hợi (951) đời Hậu Ngô Vương, Nam Tấn Vương và Thiên Sách Vương đã đem quân vào đánh không được. Đến khi nhà Ngô mất rồi, Đinh Bộ Lĩnh  hàng được sứ quân Phạm Phòng Át, phá được Đỗ Động của Đỗ Cảnh Thạc. Từ đó đánh đâu được đấy, cho nên được tôn là Vạn Thắng Vương. Chỉ trong một năm mà Vương bình được các sứ quân và lập thành nghiệp đế.

Năm Mậu Thìn (968) Vạn Thắng Vương lên ngôi Hoàng đế, tức là Tiên Hoàng đế, đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt, đóng đô ở Hoa Lư. Tiên Hoàng xây cung điện, chế triều nghi, định phẩm hàm quan văn quan võ, phong cho Nguyễn Bặc làm Định Quốc Công, Lê Hoàn làm Thập Đạo tướng quân, và phong cho con là Đinh Liễn làm Nam Việt Vương.

Năm Canh Ngọ (970) Tiên Hoàng đặt niên hiệu là Thái Bình nguyên niên, và đặt năm ngôi hoàng hậu.

Trong khi vua Đinh Tiên Hoàng dẹp loạn sứ quân ở nước ta, thì ở bên Tàu ông Triệu Khuông Dận nối nghiệp nhà Hậu Chu tức là vua Thái Tổ nhà Tống. Đến năm Canh Ngọ (970) vua Thái Tổ nhà Tống sai tướng là Phan Mỹ sang đánh lấy Nam Hán. Vua Tiên Hoàng sợ quân nhà Tống sang đánh, bèn sai sứ sang thông hiếu với Tống triều.

Năm Nhâm Thân (972) Tiên Hoàng lại sai Nam Việt Vương là Đinh Liễn đem đồ phương vật sang cống nhà Tống. Vua nhà Tống sai sứ sang phong cho Tiên Hoàng làm Giao Chỉ Quận Vương và phong cho Nam Việt Vương Liễn làm Tĩnh Hải quận Tiết độ sứ, An Nam đô hộ.

Từ đó nước ta cứ giữ lệ sang triều cống nước Tàu.

Việc chính trị trong nước lúc bấy giờ còn có nhiều người quen thói lúc loạn, không chịu tuân theo luật lệ. Tiên Hoàng phải dùng oai để trừng trị những bọn gian ác: đặt vạc dầu ở trước điện, nuôi hổ báo ở trong vườn, rồi hạ lệnh rằng hễ ai phạm tội thì bỏ vạc dầu hay là cho hổ báo ăn. Hình luật uy nghiêm như thế, thì cũng quá lắm, nhưng nhờ có những hình luật ấy thì dân trong nước mới dần dần được yên.

Việc binh lính thì Tiên Hoàng phân ra đạo, quân, lữ, tốt, ngũ. Mỗi một đạo có 10 quân; 1 quân 10 lữ; 1 lữ 10 tốt; 1 tốt 10 ngũ; 1 ngũ 10 người.

Vậy một đạo là 100.000 người, và cứ số ấy mà tính thì nhà Đinh bấy giờ có 10 đạo là 1.000.000 người.

Thiết tưởng nước ta bấy giờ đất thì nhỏ, người thì ít, lấy đâu làm 1 triệu quân được, và lấy cơm gạo đâu mà nuôi được bấy nhiêu người. Hoạ chăng Tiên Hoàng có được độ 10 vạn người đã là nhiều.

Tiên Hoàng bỏ trưởng lập ấu, cho đứa con út là Hạng Lang làm Thái tử. Con trưởng là Nam Việt Vương Liễn đã theo Tiên Hoàng đi trận mạc từ thuở hàn vi, nay không được ngôi Thái tử, lấy sự ấy làm tức giận bèn khiến người giết Hạng Lang đi. Ấy là gây nên mối loạn trong nhà.

Năm Kỷ Mão (979) vua Tiên Hoàng và Nam Việt Vương Liễn bị tên Đỗ Thích giết chết. Sử chép rằng tên Đỗ Thích trước làm lại, đêm nằm thấy sao rơi vào mồm, tưởng là triệu mình được làm vua, bèn định bụng làm sự thí đoạt. Một hôm Đỗ Thích thấy Tiên Hoàng say rượu nằm trong cung bèn lẻn vào giết Tiên Hoàng đi, rồi giết cả Nam Việt Vương Liễn.

Đình thần tìm bắt được Đỗ Thích đem làm tội, và tôn Vệ Vương Đinh Tuệ lên làm vua.

Tiên Hoàng làm vua được 12 năm, thọ được 56 tuổi.

2. PHẾ ĐẾ (979-980). Vệ Vương mới có 6 tuổi lên làm vua, quyền chính ở cả Thập đạo tướng quân là Lê Hoàn, Lê Hoàn lại cùng với Dương Thái Hậu tư thông.

Các quan đại thần bấy giờ là bọn Đinh Điền, Nguyễn Bặc thấy Lê Hoàn nhiếp chính lộng quyền quá, mới cử binh mã đến đánh, nhưng bị Lê Hoàn giết cả.

Lúc bấy giờ nhà Tống nghe tin Tiên Hoàng đã mất, tự quân còn dại, muốn thừa thế sang lấy nước ta, mới hội đại binh ở biên giới.

Bên ta được tin quân Tàu sắp sang, Lê Hoàn sai Phạm Cự Lượng làm Đại tướng đem binh đi chống giữ. Trước khi khởi hành, Phạm Cự Lượng họp cả quân sĩ lại ở trong điện, rồi nói rằng: “Bây giờ quân địch sắp vào cõi, mà vua thì còn bé, lấy ai mà thưởng phạt cho chúng mình. Dẫu chúng mình có hết sức lập được chút công nào, thì rồi ai biết cho? Chi bằng nay ta tôn Thập đạo tướng quân lên làm vua rồi ra đánh thì hơn”.

Quân sĩ nghe nói đều hô vạn tuế. Thái hậu thấy quân sĩ thuận cả, mới sai lấy áo long cổn mặc vào cho Lê Hoàn.

Lê Hoàn lên làm vua, giáng Đinh Tuệ xuống làm Vệ Vương, sử gọi là Phế Đế.

Nhà Đinh làm vua được 2 đời, cả thảy là 14 năm.


------------------------------

* Chú thích:

(1)  Có sách chép rằng Đinh Tiên Hoàng tên là Hoàn, chứ không phải là Bộ Lĩnh. Bộ Lĩnh là tước quan của Trần Lãm phong cho Đinh Hoàn. Nhưng xét trong "Khâm định Việt sử" và các sách khác thì thấy chép Đinh Bộ Lĩnh chứ không thấy Đinh Hoàn. Vậy nay cứ theo sách Khâm định mà chép.

(Xem tiếp kỳ sau)