Tự chủ thời đại – Chương VII. Giặc nhà Nguyên - I

28/03/2005 10:21:29 AM

(Tiếp theo kỳ trước)

Chương VII

GIẶC NHÀ NGUYÊN
(1284 – 1288)

1. SÀI THUNG SANG SỨ AN NAM. Nhà Nguyên nghe tin Trần Thái Tông mới mất và Thánh Tông nhượng vị, liền sai Lễ bộ thượng thư là Sài Thung sang sứ, đi từ Giang Lăng (Hồ Bắc), qua Ung Châu (Quảng Tây) rồi sang nước Nam, chứ không đi qua tỉnh Vân Nam như các sứ thần trước.

Sài Thung đến kinh thành, lên mặt kiêu ngạo, cưỡi ngựa đi thẳng vào cửa Dương Minh, rồi cho người đưa thư vào trách Nhân Tông rằng: “Sao không xin phép triều đình nhà Nguyên, mà dám tự lập, vậy phải sang chầu Thiên triều Hoàng đế mới xong”. Nhân Tông sai quan đại thần ra tiếp, Thung không thèm đáp lễ; vua bày yến mời, Thung không thèm đến. Đình thần An Nam ai cũng lấy làm tức giận nhưng không dám nói ra.

Sau vua phải dọn yến ở điện Tập Hiền, mời mãi Sài Thung mới đến. Đương khi uống rượu, Nhân Tông bảo Sài Thung rằng: “Quả nhân xưa nay sinh trưởng ở trong cung không quen phong thổ, không thể nào đi được”.

Được mấy hôm Sài Thung về nước. Nhân Tông sai sứ mang thư sang Tàu nói không thể sang chầu được. Nguyên triều thấy vua An Nam không chịu sang chầu, và cứ đưa thư sang nói thoái thác ra việc nọ việc kia, ý muốn cầm quân sang đánh, nhưng còn chưa quyết.

2. TRẦN DI ÁI THEO NHÀ NGUYÊN. Năm Nhâm Ngọ (1282), Nguyên chủ lại cho sứ sang dụ rằng: “Nếu vua nước Nam không sang chầu được thì phải đưa vàng ngọc sang thay, và phải nộp hiền sĩ, thầy âm dương bói toán, thợ khéo mỗi hạng hai người”.

Nhân Tông sai người chú họ là Trần Di Ái và Lê Tuân, Lê Mục sang thay cho mình. Nhưng Nguyên chủ không bằng lòng, quyết ý chiếm giữ quyền cai trị nước Nam, bèn xuống chỉ lập tòa Tuyên phủ ti đặt quan liêu thuộc để sang giám trị các châu huyện. Quan nhà Nguyên sang đến nơi, Nhân Tông không nhận, đuổi về Tàu.

Nguyên chủ thấy vậy giận lắm, bèn lập Trần Di Ái làm An Nam Quốc Vương, phong cho Lê Mục làm Hàn lâm học sĩ, Lê Tuân làm Thượng thư lệnh, và sai Sài Thung dẫn 1.000 quân đưa bọn ấy về nước.

Trần Di Ái thấy Nguyên chủ phong cho cũng nhận, đưa về cũng về; chắc trong bụng đồ là chuyến này nhờ sức Mông Cổ, may xong việc, thì được làm vua, nhược bằng không xong, thì đổ cho là Nguyên chủ bắt ép; vì thế mới theo Sài Thung về.

Sài Thung đưa bọn Trần Di Ái đến gần ải Nam Quan, có tin phi báo về kinh đô. Nhân Tông liền sai tướng dẫn một đội quân lên đón đường đánh lũ nghịch thần. Sài Thung bị tên bắn mù mất một mắt, trốn chạy về Tàu, còn lũ Trần Di Ái bị bắt, phải tội đồ làm lính.

3. THOÁT HOAN SANG ĐÁNH LẦN THỨ NHẤT. Nguyên chủ thấy Sài Thung bị thương chạy về tức giận lắm, bèn sai con là Thoát Hoan làm Trấn Nam Vương, cùng với bọn Toa Đô, Ô Mã Nhi dẫn 50 vạn quân, giả tiếng mượn đường đi qua nước Nam sang đánh Chiêm Thành.

Quan trấn thủ Lạng Sơn do thám được tin ấy, sai người về kinh đô phi báo. Nhân Tông ngự thuyền ra sông Bình Than[1] chỗ sông Đuống nối với sông Thái Bình, để hội với các vương hầu bách quan lại bàn kế chống giữ.

Các quan, người thì nói nên để cho quân Nguyên mượn đường, người thì bảo nên đưa đồ sang cống để xin hoãn binh. Duy có Trần Quốc Tuấn và Trần Khánh Dư quyết đem quân đi phòng giữ các nơi hiểm yếu, không cho quân Mông Cổ sang nước Nam. Nhân Tông ưng nghe lời ấy. Đến tháng Mười năm Quý Mùi (1283) phong cho Hưng Đạo Vương là Trần Quốc Tuấn làm Tiết chế thống lĩnh mọi quân đi chống giữ với quân nhà Nguyên.

Qua tháng Tám năm Giáp Thân (1284) ông Trần Quốc Tuấn truyền hịch cho các vương hầu hội hết quân sĩ tại bến Đông Bộ Đầu để kiểm duyệt. Quân thủy và quân bộ cả thảy 20 vạn.

Ông Trần Quốc Tuấn truyền cho các tướng sĩ rằng: “Bản chức phụng mệnh thống đốc quân sĩ ra phá giặc. Các vương hầu và các tướng sĩ, ai nấy đều phải giữ phép tắc, đi đâu không được nhiễu dân và phải đồng lòng hết sức đánh giặc, chớ thấy thua mà ngã lòng, chớ thấy được mà tự kiêu, việc quân có luật, phép nước không thân, các ngươi phải giữ”. Xong rồi sai Trần Bình Trọng đem quân đi đóng đồn ở trên sông Bình Than, Trần Khánh Dư đem quân ra giữ mặt Vân Đồn (thuộc Vân Hải ở Quảng Yên), còn các tướng thì chia ra đóng các nơi hiểm yếu. Trần Quốc Tuấn tự dẫn đại quân đóng ở Vạn Kiếp (tức là làng Kiếp Bạc thuộc Hải Dương) để tiếp ứng cho các nơi.

Được ít lâu, Nhân Tông nghe tin về báo rằng quân nhà Nguyên hội tại Hồ Quảng sắp sửa kéo sang mặt Lạng Sơn. Vua có ý lo quân ta địch không nổi, bèn sai sứ mang đồ lễ sang Tàu, xin vua nhà Nguyên hoãn binh, để thương nghị lại.

Vua nhà Nguyên không nghe, sai Thoát Hoan cứ việc tiến binh sang.

Nhân Tông thấy vậy, lập tức cho triệu cả các bô lão dân gian, hội tại điện Diên Hồng để bàn xem nên hòa hay nên đánh. Các bô lão đồng thanh xin đánh. Vua thấy dân gian một lòng như vậy, cũng quyết ý kháng cự.

Quân Nguyên chia ra làm hai đạo: một đạo do tướng Mông Cổ là Toa Đô đem 10 vạn quân từ Quảng Châu đi hải đạo sang đánh Chiêm Thành; còn Thoát Hoan thì kéo đại binh đến ải quan, sai người đưa thư sang nói cho mượn đường đi đánh Chiêm Thành.

Nhân Tông tiếp được thư của Thoát Hoan, trả lời lại rằng: “Tự bản quốc sang Chiêm Thành, thủy lục không có đường nào tiện”. Sứ giả về nói với Thoát Hoan, Thoát Hoan nổi giận, thúc quân kéo sang mạn Lạng Sơn, rồi sai quan Bả tổng tên là A Lý đến dụ rằng: “Bản súy chỉ nhờ đường Nam quốc sang đánh Chiêm Thành, chứ không có bụng gì đâu mà ngại. Nên mở cửa ải cho quân bản súy đi, và đi đến đâu, nhờ giúp ít nhiều lương thảo, rồi khi nào phá xong Chiêm Thành thì sẽ có trọng tạ về sau. Nhược bằng kháng cự thiên binh, thì bản súy sẽ không dong tình, phá tan bờ cõi, bấy giờ dù hối lại cũng không kịp”.

Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn nổi giận, đuổi A Lý về, rồi phân binh giữ ải Khả Li và Lộc Châu (thuộc Lạng Sơn) còn mình thì tự dẫn đại quân đóng giữ núi Kỳ Cấp. Những chiến thuyền thì đóng ở Bái Tân[2] giữ mặt thủy.

4. TRẦN HƯNG ĐẠO VƯƠNG QUÂN THUA VỀ VẠN KIẾP. Thoát Hoan thấy Hưng Đạo Vương giữ cả các nơi, liền tiến binh lên đánh núi Kì Cấp, ải Khả Li và ải Lộc Châu. Quân hai bên đánh nhau ở núi Kì Cấp hai ba trận không phân thắng bại. Nhưng sau vì Khả Li và Lộc Châu thất thủ, quân An Nam phải rút về ải Chi Lăng[3]. Thoát Hoan dẫn đại binh đến đánh Chi Lăng, Hưng Đạo Vương kém thế, thua chạy ra bến Bái Tân, xuống thuyền cùng với bọn gia tướng là Dã Tượng và Yết Kiêu về Vạn Kiếp. Các tướng thu nhặt tàn quân dần dần cũng kéo về đấy cả.

Nhân Tông nghe Hưng Đạo Vương thua chạy về Vạn Kiếp, liền ngự một chiếc thuyền nhỏ xuống Hải Đông (tức là Hải Dương) rồi cho vời Hưng Đạo Vương đến bàn việc, nhân thấy quân mình thua, trong bụng lo sợ, mới bảo Hưng Đạo Vương rằng: "Thế giặc to như vậy, mà chống với nó thì dân sự tàn hại, hay là trẫm hãy chịu hàng đi để cứu muôn dân".

Hưng Đạo Vương tâu rằng: "Bệ hạ nói câu ấy thì thật là lời nhân đức, nhưng mà tôn miếu xã tắc thì sao? Nếu bệ hạ muốn hàng, xin trước hãy chém đầu tôi đi đã, rồi sau sẽ hàng!". Vua nghe lời nói trung liệt như vậy, trong bụng mới yên.

Hưng Đạo Vương chiêu tập quân các đạo, hội tại Vạn Kiếp được hơn 20 vạn quân, thế lại nổi to. Bấy giờ Hưng Đạo Vương có soạn ra một quyển Binh thư yếu lược rồi truyền hịch khuyên răn các tướng sĩ. Tờ hịch ấy làm bằng Hán văn, nay dịch ra quốc âm như sau này:

"Ta thường nghe chuyện: Kỷ Tín liều thân chịu chết thay cho vua Cao Đế; Do Vu lấy mình đỡ ngọn giáo cho vua Chiêu Vương; Dự Nhượng nuốt than để báo thù cho chủ; Thân Khoái chặt tay để cứu nạn cho nước; Kính Đức là một chức quan còn nhỏ mà liều thân cứu vua Thái Tông được thoát vòng vây; Kiểu Khanh là một bề tôi ở xa mà kể tội mắng thằng Lộc Sơn là quân nghịch tặc. Các bậc trung thần nghĩa sĩ ngày xưa, bỏ mình vì nước đời nào không có?

Giả sử mấy người ấy cũng cứ bo bo theo lối thường tình, chết già ở xó nhà, thì sao cho lưu danh sử sách đến nghìn muôn đời như thế được?

Nay các người vốn dòng vũ tướng, không hiểu văn nghĩa, nghe những chuyện cổ tích ấy, nửa tin nửa ngờ, ta không nói làm gì nữa; ta hãy đem chuyện đời Tống, Nguyên mới rồi mà nói: Vương Công Kiên là người thế nào? Tỳ tướng của Vương Công Kiên là Nguyễn Văn Lập lại là người thế nào? mà giữ một thành Điếu Ngư[4] nhỏ mọn, chống với quân Mông Kha[5] kể hàng trăm vạn, khiến cho dân sự nhà Tống đến nay còn đội ơn sâu. Đường Ngột Ngại là người thế nào? Tỳ tướng của Đường Ngột Ngại là Xích Tu Tư lại là người thế nào, mà xông vào chỗ lam chướng xa xôi, đánh được quân Nam Chiếu trong vài ba tuần, khiến cho quân trưởng đời Nguyên đến nay còn lưu tiếng tốt. Huống chi ta cùng các ngươi sinh ở đời nhiễu nhương, gặp phải buổi gian nan này, trông thấy những nguỵ sứ đi lại rầm rập ngoài đường, uốn lưỡi cú diều mà xỉ mắng triều đình, đem thân dê chó mà bắt nạt tể phụ, lại cậy thế Hốt Tất Liệt mà đòi ngọc lụa, ỷ thế Vân Nam Vương[6] để vét bạc vàng; của kho có hạn, lòng tham không cùng, khác nào như đem thịt mà nuôi hổ đói, giữ sao cho khỏi tai vạ về sau!

Ta đây, ngày thì quên ăn, đêm thì quên ngủ, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa, chỉ căm tức rằng chưa được sả thịt lột da của quân giặc, dẫu thân này phơi ngoài nội cỏ, xác này gói trong da ngựa, thì cũng đành lòng. Các người ở cùng ta coi giữ binh quyền, cũng đã lâu ngày, không có áo thì ta cho áo, không có ăn thì ta cho ăn, quan còn nhỏ thì ta thăng thưởng, lương có ít thì ta tăng cấp, đi thuỷ thì ta cho thuyền, đi bộ thì ta cho ngựa, lúc hoạn nạn thì cùng nhau sống chết, lúc nhàn hạ thì cùng nhau vui cười, những cách cư xử so với Vương Công Kiên, Đường Ngột Ngại ngày xưa cũng chẳng kém gì.

Nay các ngươi trông thấy chủ nhục mà không biết lo, trông thấy quốc sỉ mà không biết thẹn, thân làm tướng phải hầu giặc mà không biết tức, tai nghe nhạc để hiến nguỵ sứ mà không biết căm; hoặc lấy việc chọi gà làm vui đùa, hoặc lấy việc đánh bạc làm tiêu khiển, hoặc vui thú về vườn ruộng, hoặc quyến luyến về vợ con, hoặc nghĩ về lợi riêng mà quên việc nước, hoặc ham về săn bắn mà quên việc binh, hoặc thích rượu ngon, hoặc mê tiếng hát. Nếu có giặc đến, thì cựa gà trống sao cho đâm thủng được áo giáp; mẹo cờ bạc sao cho dùng nổi được quân mưu; dẫu rằng ruộng lắm vườn nhiều, thân ấy nghìn vàng khôn chuộc; vả lại vợ bìu con díu, nước này trăm sự nghĩ sao; tiền của đâu mà mua cho được đầu giặc; chó săn ấy thì địch sao nổi quân thù; chén rượu ngon không làm được cho giặc say chết, tiếng hát hay không làm được cho giặc điếc tai; khi bấy giờ chẳng những là thái ấp của ta không còn, mà bổng lộc của các ngươi cũng  hết; chẳng những là gia quyến của ta bị đuổi, mà vợ con của các ngươi cũng nguy, chẳng những là ta chịu nhục bây giờ, mà trăm năm về sau, tiếng xấu hãy còn mãi mãi; mà gia thanh của các ngươi cũng chẳng khỏi mang tiếng nhục, đến lúc bấy giờ các ngươi dẫu muốn vui vẻ, phỏng có được hay không?

Nay ta bảo thật các ngươi: nên cẩn thận như nơi củi lửa, nên giữ gìn như kẻ húp canh, dạy bảo quân sĩ, luyện tập cung tên, khiến cho người nào cũng có sức khoẻ như Bàng Mông và Hậu Nghệ, thì mới có thể dẹp tan được quân giặc, mà lập nên được công danh. Chẳng những là thái ấp của ta được vững bền, mà các ngươi cũng đều được hưởng bổng lộc; chẳng những là gia quyến của ta được yên ổn, mà các ngươi cũng đều được vui với vợ con, chẳng những là tiên nhân ta được vẻ vang, mà các ngươi cũng được phụng thờ tổ phụ, trăm năm vinh hiển; chẳng những là một mình ta được sung sướng, mà các ngươi cũng được lưu truyền sử sách, nghìn đời thơm tho; đến bấy giờ các ngươi dầu không vui vẻ, cũng tự khắc được vui vẻ.

Nay ta soạn hết các binh pháp của các nhà danh gia hợp lại làm một quyển gọi là "Binh thư yếu lược". Nếu các ngươi biết chuyên tập sách này, theo lời dạy bảo, thì mới phải đạo thần tử; nhược bằng khinh bỏ sách này, trái lời dạy bảo, thì tức là kẻ nghịch thù.

Bởi cớ sao? Bởi giặc Nguyên cùng ta, là kẻ thù không đội trời chung, thế mà các ngươi cứ điềm nhiên không nghĩ đến việc báo thù, lại không biết dạy quân sĩ, khác nào như quay ngọn dáo mà đi theo kẻ thù, giơ tay không mà chịu thua quân giặc, khiến cho sau trận Bình Lỗ[7] mà ta phải chịu tiếng xấu muôn đời, thì còn mặt mũi nào đứng trong trời đất nữa. Vậy nên ta phải làm ra bài hịch này để cho các ngươi biết bụng ta".

5. THÀNH THĂNG LONG THẤT THỦ. Các tướng sĩ được lời khuyên răn ấy, ai nấy hết lòng luyện tập, quyết chí đánh giặc, cho nên người nào cũng lấy mực thích vào cánh tay hai chữ "Sát Đát" nghĩa là giết quân Mông Cổ. Khi Thoát Hoan lấy xong các ải ở Lạng Sơn rồi, thừa thắng kéo xuống đánh Vạn Kiếp, quân An Nam non thế, địch không nổi, thua chạy, bao nhiêu chiến thuyền mất cả. Quân Mông Cổ bắt được quân An Nam thấy người nào cũng có hai chữ "Sát Đát" ở cánh tay, giận lắm, đem giết sạch cả, rồi kéo tràn sang mặt Kinh Bắc. Thoát Hoan thả quân cho cướp phá vùng Võ Ninh, Gia Lâm, Đông Ngạn rồi kéo về đóng tại bến Đông Bộ đầu. Hưng Đạo Vương lập trại mé nam ngạn để phòng giữ.

Thoát Hoan thấy phía nam ngạn sông Hồng Hà[8] có trại quân An Nam đóng giữ, mới sai quân lấy súng đại bác bắn sang, phá tan cả các trại, quân sĩ khiếp sợ bỏ chạy hết sạch. Quân Mông Cổ bấy giờ làm cầu phao qua sông, kéo đến tận chân thành Thăng Long hạ trại.

Hưng Đạo Vương rước xa giá Thượng hoàng và vua ra ngoài Thăng Long, để các tướng ở lại giữ thành. Đến khi Thoát Hoan vây đánh, hạ đuợc thành, biết rằng Hưng Đạo Vương đã rước xa giá xuống mặt nam rồi, liền sai tướng dẫn quân đi đuổi đánh.

6. TOA ĐÔ ĐÁNH NGHỆ AN. Toa Đô là tướng đạo thứ hai quân Nguyên, đi đuờng bể sang đánh Chiêm Thành, nhưng mà quân nước Chiêm giữ được các đuờng hiểm yếu, đánh mãi không được. Nguyên chúa hạ chiếu sai Toa Đô theo đường bộ kéo ra mặt Nghệ An, hợp với quân Thoát Hoan để đánh An Nam.

Thoát Hoan được tin ấy, liền sai tướng Ô Mã Nhi dẫn quân đi đường biển vào tiếp ứng cho Toa Đô để đánh từ mặt trong đánh ra, còn ở mặt ngoài thì chiến thuyền của nhà Nguyên chia ra giữ các bến đóng ở sông Hồng Hà từ Thăng Long xuống đến khúc sông Đại Hoàng (thuộc huyện Nam Xang, Hà Nam).

7.HƯNG ĐẠO VƯƠNG ĐEM VUA VỀ THANH HOÁ. Bấy giờ Hưng Đạo Vương dẫn các tướng hộ vệ xa giá xuống Thiên Trường, nghe Toa Đô từ vùng trong kéo ra, Hưng Đạo Vương tâu xin vua sai Thượng tướng Trần Quang Khải đưa binh vào đóng mặt Nghệ An, giữ chặn đường hẻm, không cho Toa Đô ra, và sai Trần Bình Trọng ở lại giữ Thiên Trường cự nhau với quân Thoát Hoan, rồi rước xa giá ra Hải Dương.

Trần Quang Khải vào đến Nghệ An, chia quân phòng giữ, nhưng quân nhà Nguyên thế mạnh, đi đến đâu đánh tan đến đấy, lại có Ô Mã Nhi ở mặt bể đánh vào. Quang Khải đương không nổi, phải rút quân ra mặt ngoài. Còn quan trấn thủ Nghệ An là Trần Kiện đem cả nhà ra hàng với Toa Đô. Toa Đô cho đưa bọn Trần Kiện về Yên Kinh.

Hưng Đạo Vương nghe tin, sai tướng đem quân đi lẻn đuờng tắt đuổi theo. Khi quân Nguyên đưa Trần Kiện đến địa phận Lạng Sơn, qua trại Ma Lục (?), thì có người thổ hào ở đấy tên là Nguyễn Thế Lộc và Nguyễn Lĩnh đem dân binh ra đánh. Lại có quan quân đuổi đến nơi, quân Nguyên bỏ chạy. Trần Kiện bị tên bắn chết, nhưng có người nhà là Lê Tắc cướp được thây chạy thoát, đưa đến gò Ôn Khâu (Lạng Sơn) mai táng xong rồi trốn sang Tàu. Lê Tắc là dòng dõi Nguyễn Phu là Thứ sử Giao Châu về đời Đông Tấn (317 - 419) ngày trước. Tự lúc trốn sang Tàu rồi, Lê Tắc có làm bộ sử "An Nam chí lược". Bộ sử ấy hiện bây giờ còn có ở bên Tàu và bên Nhật Bản.

Ở Thiên Trường, Trần Bình Trọng thấy quân nhà Nguyên đã đến bãi Đà Mạc (ở khúc sông Thiên Mạc, huyện Đông An, Hưng Yên) liền đem binh ra đánh, nhưng chẳng may bị vây, phải bắt. Quân Nguyên đưa Bình Trọng về nộp cho Thoát Hoan. Thoát Hoan biết Bình Trọng là tướng khoẻ mạnh, muốn khuyên dỗ về hàng, thết đãi cho ăn uống, nhưng Bình Trọng không ăn, dỗ dành hỏi dò việc nước, Bình Trọng cũng không nói. Sau Thoát Hoan hỏi rằng: "Có muốn làm vương đất Bắc không?" Bình Trọng quát lên rằng: "Ta thà rằng làm quỉ nước Nam, chứ không thèm làm vương đất Bắc. Ta đã bị bắt thì có một chết mà thôi, can gì mà phải hỏi lôi thôi!" Thoát Hoan thấy dỗ không được, sai quân đem chém.

Thánh Tông thượng hoàng cùng Nhân Tông và Hưng Đạo Vương nghe tin Trần Bình Trọng tử tiết, ai nấy động lòng thương xót.

Hưng Đạo Vương thấy thế nguy cấp lắm, bèn rước xa giá ra Quảng Yên. Thuyền đi về đường sông Tam Chỉ (thuộc châu Tiên Yên), sai một tướng dẫn chiếc thuyền rồng ra cửa bể Ngọc Sơn (thuộc châu Vạn Ninh, tỉnh Quảng Yên) làm cho nghi tình giặc. Tướng nhà Nguyên là Lý Hằng và Khoan Triệt sai người do thám biết thuyền ra Ngọc Sơn là giả, mới dẫn quân đuổi theo đến sông Tam Chỉ, Hưng Đạo Vương rước xa giá lên bộ đi đến làng Thuỷ Chú rồi lại xuống thuyền ra sông Nam Triệu (tức Bạch Đằng Giang, thuộc Hải Dương) rồi vào tỉnh Thanh Hoá.

Bấy giờ quân Nguyên to thế lắm, đóng khắp các nơi, từ vùng Bắc Ninh, Thăng Long, Thiên Trường, chỗ nào cũng có quân đóng. Ở vùng Nghệ An lại có Toa Đô, Đường Ngột Ngải, Ô Mã Nhi đánh ra. Nhân Tông kinh hãi, Thượng hoàng đêm ngày lo sợ. Nhà nuớc ngất ngưởng nguy như trứng chồng. Bọn hoàng tộc là Trần Ích Tắc, Trần Tú Viên đều ra hàng Thoát Hoan cả. Chỉ có Hưng Đạo Vuơng phụng xa giá đi, trèo non vượt bể, trải gió dầm mưa, thế lực tuy cùng, nhưng vẫn bền vững một lòng, tìm kế đánh giặc, lo liệu việc nước không rối sợ lúc nào. Thật là một người có tài đại tướng, có thể cứu dân giúp nước đến muôn đời.

8. TRẬN HÀM TỬ QUAN: Trần Nhật Duật phá quân Toa Đô. Đạo quân của Toa Đô ở Chiêm Thành kéo ra đánh lấy đất Nghệ An. Trần Quang Khải đem quân lùi ra mặt ngoài giữ các đường hiểm yếu. Toa Đô đánh mãi không được, mà lương thảo thì mỗi ngày một cạn, bèn cùng với Ô Mã Nhi dẫn quân xuống thuyền vượt bể ra ngoài Bắc để hợp binh với Thoát Hoan.

Trần Quang Khải được tin ấy, cho người về Thanh Hóa phi báo. Nhân Tông hội quần thần lại hỏi kế, Hưng Đạo Vương tâu rằng: “Toa Đô tự Chiêm Thành trở ra, qua vùng Ô Lý (Thuận Hóa), Hoan (Nghệ An), Ái (Thanh Hóa), đường sá gập ghềnh, quân sĩ vất vả, nay lại vượt bể ra ngoài Bắc, thì sức lực cũng đã mỏi mệt. Vậy nên sai một tướng đem quân ra đón đường mà đánh thì chắc phá được”.

Nhân Tông nghe lời, sai Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật làm tướng và Trần Quốc Toản[9] làm phó tướng cùng với tướng quân là Nguyễn Khoái đem 5 vạn quân ra đón đường đánh Toa Đô ở mặt Hải Dương. Tháng Tư năm Ất Dậu (1285) Trần Nhật Duật ra đến bến Hàm Tử (thuộc huyện Đông An, Hưng Yên) thì gặp chiến thuyền của Toa Đô, Nhật Duật liền phân binh ra đánh. Quân Nhật Duật bấy giờ có bọn Triệu Trung là tướng nhà Tống sang xin tùng chinh, mặc áo đeo cung như quân nhà Tống. Đến khi giáp trận, quân Nguyên trông thấy bọn Triệu Trung, tưởng là nhà Tống đã khôi phục được nước Tàu, rồi cho quân sang cứu An Nam, đứa nào cũng sợ hãi bỏ chạy. Quân ta đuổi đánh, quân giặc thua to chết rất nhiều. Toa Đô phải lùi ra ở cửa Thiên Trường.

Trần Nhật Duật thắng trận, cho Quốc Toản đưa tin về Thanh Hóa. Hưng Đạo Vương được tin mừng ấy, vào tâu với vua rằng:

“Quân ta mới thắng, khí lực đang hăng, mà quân Nguyên mới thua, tất cũng chột dạ. Vậy nên nhân dịp này tiến quân đánh Thoát Hoan để khôi phục kinh thành”.

Vua nghe lời, truyền lệnh chuẩn bị tiến binh. Chợt có Thượng tướng Trần Quang Khải ở trong Nghệ An ra, xin đi đánh Thoát Hoan. Vua liền sai Quang Khải thu xếp quân sĩ để ra đánh Thăng Long và truyền hịch sai Trần Nhật Duật đóng quân giữ chặn đường không cho bọn Toa Đô kéo lên hợp với Thoát Hoan.

9. TRẬN CHƯƠNG DƯƠNG ĐỘ: Trần Quang Khải khôi phục Thăng Long. Khi ấy đại binh của Thoát Hoan đóng tại Thăng Long, còn chiến thuyền thì đóng ở bến Chương Dương, địa phận huyện Thượng Phúc.

Trần Quang Khải với Trần Quốc Toản và Phạm Ngũ Lão đem quân tự Thanh Hóa đi thuyền vòng đường bể ra đến bến Chương Dương, sấn vào đánh chiến thuyền của quân Nguyên. Quan quân đánh hăng quá, quân Nguyên địch không nổi phải bỏ chạy. Quan quân lên bộ đuổi đánh về đến chân thành Thăng Long hạ trại. Thoát Hoan đem đại binh ra cự địch, bị phục binh của Trần Quang Khải đánh úp lại, quân Nguyên phải bỏ thành Thăng Long chạy qua sông Hồng Hà  sang giữ mặt Kinh Bắc (Bắc Ninh).

Trần Quang Khải đem quân vào thành mở tiệc khao quân. Đến khi uống rượu vui vẻ, Quang Khải ngâm bài thơ rằng:

Đoạt sáo Chương Dương độ
Cầm Hồ Hàm Tử quan
Thái bình nghi nỗ lực
Vạn cổ thử giang san

Dịch nôm:

Chương Dương cướp giáo giặc
Hàm Tử bắt quân thù
Thái Bình nên gắng sức
Non nước ấy nghìn thu

Trần Quang Khải sai người về Thanh Hóa dâng biểu báo tin thắng trận. Vua Nhân Tông thấy quân thế đã mạnh, trong hai tháng đánh được hai trận, quân sĩ ai nấy đều nức lòng đánh giặc, bèn rước Thượng hoàng và cất binh mã ra đóng ở Tràng An (Ninh Bình).

10. TRẬN TÂY KẾT: Tướng nhà Trần chém được Toa Đô. Toa Đô đóng quân ở Thiên Trường xa cách Thoát Hoan hơn 200 dặm, cho nên chưa biết Thoát Hoan đã thua chạy về Bắc Giang rồi, bèn tiến binh vào đóng ở sông Thiên Mạc[10] định để hợp sức với Thoát Hoan làm thế ỷ giốc. Được mấy hôm Toa Đô biết đạo tiền quân của mình đã bại trận, mà các bến thì chỗ nào cũng có quân nhà Trần án ngữ, mới lui về đóng ở Tây Kết[11] rồi cho người đi dò xem quân Thoát Hoan đóng ở đâu.

Quân An Nam từ khi đánh được trận Hàm Tử và trận Chương Dương rồi, quân thế phấn chấn lắm. Hưng Đạo Vương mừng rỡ, vào tâu với Nhân Tông xin một mặt sai Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật, hợp với Thượng tướng Trần Quang Khải dẫn quân chặn các đường, không cho Thoát Hoan, Toa Đô đi lại thông tin với nhau, và một mặt xin tự tiến ra đánh Toa Đô, rồi đánh Thoát Hoan.

Nhân Tông nghe lời ấy, cho Hưng Đạo Vương tùy ý sai khiến. Khi quân ra đến Tây Kết, Hưng Đạo Vương chia quân ra đánh trại quân Nguyên và đặt phục binh để bắt Toa Đô.

Quân ta đánh hăng quá, quân Nguyên địch không nổi, Toa Đô và Ô Mã Nhi đem binh lên bộ chạy ra mặt bể, nhưng khi chạy đến mé sau một dãy núi, thì bị quân An Nam vây đánh, Toa Đô trúng tên chết, còn Ô Mã Nhi thì tìm đường chạy vào Thanh Hóa, nhưng bị quân ta đánh đuổi ngặt quá, phải một mình lẻn xuống chiếc thuyền con chạy ra bể, trốn về Tàu được.

Khi các tướng thắng trận, đưa đầu Toa Đô về nộp. Nhân Tông thấy người dũng kiện mà lại hết lòng với chúa, mới than rằng: “Làm bầy tôi nên như người này!” rồi cởi áo ngự bào đắp cho đầu Toa Đô, sai quan dùng lễ mai táng cho tử tế.

Trận Tây Kết đánh vào tháng Năm, năm Ất Dậu (1285) quan quân bắt được quân Nguyên hơn 3 vạn người, và chiếm thuyền khí giới không biết bao nhiêu mà kể.

Hưng Đạo Vương được trận toàn thắng, mở tiệc khao thưởng ba quân, rồi lên đánh mặt bắc, để tiễu trừ Thoát Hoan.

11. TRẬN VẠN KIẾP: Thoát Hoan trốn chạy về Tàu. Bấy giờ Thoát Hoan đóng quân ở Bắc Giang, nghe tin Toa Đô tử trận, Ô Mã Nhi trốn về Tàu, quân binh tướng sĩ ai nấy đều ngã lòng cả. Vả lại trời đang mùa hè nóng nực khó chịu, sơn lam chướng khí bốc lên, quân sĩ bị dịch tễ chết hại cũng nhiều. Bởi thế có bụng muốn rút quân về Tàu.

Hưng Đạo Vương cũng biết cơ Thoát Hoan tất phải chạy, liền sai Nguyễn Khoái, Phạm Ngũ Lão dẫn 3 vạn quân lên đường núi, phục sẵn hai bên rừng sậy ở bên sông Vạn Kiếp để chờ lúc quân Nguyên chạy đến thì đổ ra đánh; sai hai con là Hưng Võ Vương Nghiễn và Hưng Hiếu Vương Úy dẫn 3 vạn quân đi đường Hải Dương ra mặt Quảng Yên, giữ chặn đường về châu Tư Minh; Hưng Đạo Vương tự dẫn đại quân lên Bắc Giang đánh quân Nguyên. Quân Nguyên thua chạy, Thoát Hoan dẫn đại binh chạy đến bến Vạn Kiếp, gặp bọn Nguyễn Khoái ra đánh, quân Nguyên mười phần tổn hại mất năm. Tướng nhà Nguyên là Lý Hằng bị tên bắn chết. Còn Thoát Hoan, Phàn Tiếp, A Bát Xích, Lý Quán cố sức đánh lấy đường mà chạy. Sau thấy quân An Nam đuổi kíp quá, Thoát Hoan phải chui vào cái ống đồng để lên xe bắt quân kéo chạy. Về đến châu Tư Minh lại gặp bọn Hưng Võ Vương Nghiễn và Hưng Hiếu Vương Úy đánh đuổi một trận nữa. Lý Quán trúng tên chết. Thoát Hoan, A Bát Xích và Phàn Tiếp chạy thoát về Tàu được.

Thế là đại quân của Thoát Hoan lúc đầu mới sang lừng lẫy bao nhiêu, bây giờ tan nát mất cả. Trong sáu tháng trời, từ tháng Chạp năm Giáp Thân (1284) đến tháng Sáu năm Ất Dậu (1285), quân An Nam đuổi 50 vạn quân Mông Cổ ra ngoài bờ cõi, chỉnh đốn giang sơn lại như cũ. Ấy cũng nhờ có tay Hưng Đạo Vương có tài đại tướng, cầm quân vững chãi, gan bền tựa sắt, và lại khéo dùng lời khuyên dỗ, khiến cho bụng người cảm động, sinh lòng trung nghĩa, cho nên tướng sĩ ai nấy đều hết lòng giúp nước.

Vả nước An Nam thời bấy giờ vua tôi hòa hợp, lòng người như một, nhân tài lũ lượt kéo ra; mà quân Nguyên sang An Nam thì đường xa muôn dặm, núi sông cách trở, đến mùa nóng nực, khí hậu lại lam chướng, cho nên chỉ hùng mạnh được lúc đầu mà thôi, sau thành ra bệnh tật đau yếu. Như thế mà lại gặp phải tay Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn dụng binh biết đợi thời, biết thừa thế tiến thoái, cho nên sự quân nhà Nguyên thua tan nát là sự tất nhiên vậy.

------------------------

* Chú thích:

[1] Làng Bình Than, tổng Vạn Ti, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh.

[2] Ở thượng lưu sông Lục Nam, có lẽ là bến Chữ.

[3] Cửa Chi Lăng, tục gọi là bầu Chi Lăng ở tổng Chi Lăng, gần ga Tuần Muội, thuộc về địa hạt Châu Ôn, tỉnh Lạng Sơn. Chỗ ấy là một nơi hiểm địa nước Nam ta-. Trần Hưng Đạo vương sau lại phá quân Nguyên ở chỗ ấy, và đến đầu đời Lê, vua Thái Tổ giết tướng nhà Minh và Liễu Thăng cũng ở chỗ ấy.

[4] Điếu Ngư là tên núi, thuộc phủ Trùng Khánh tỉnh Tứ Xuyên.

[5] Mông Kha là vua Mông Cổ, anh Hốt Tất Liệt.

[6] Khi quân Mông Cổ lấy được đất Vân Nam rồi, Hốt Tất Liệt phong cho con là Hốt Kha Kích làm Vân nam Vương.

[7] Bình Lỗ là tên thành, nhưng sử cũ không chép rõ ở đâu và ai xây lên. Sách “Khâm định Việt sử” chép rằng theo bộ “Địa dư chí” của ông Nguyễn Trãi, thì đời nhà lý có đào con sông Bình Lỗ để đi lên Thái Nguyên cho tiện. Vậy thành Bình Lỗ có lẽ ở vào hạt Thái Nguyên. Xem lời dặn của Trần Hưng Đạo vương thì thành Bình Lỗ này xây vào đời Đinh hay đời Tiền Lê, rồi Lý Thường Kiệt đời Lý đã đánh quân Tống ở đó.

[8] Sử chép là Phú Lương Giang

[9] Sử chép rằng khi vua Nhân Tông hội các vương hầu ở Bình Than để bàn việc chống với giặc, Trần Quốc Toản bấy giờ mới có 15, 16 tuổi cũng theo ra hội. Vì còn nhỏ tuổi cho nên không được dự bàn, Quốc Toản căm tức vô cùng, trong tay cầm quả cam bóp vỡ nát ra lúc nào không biết.

Khi tan hội, ai nấy về lo sửa soạn binh thuyền. Quốc Toản về nhà cùng tụ họp những người thân thuộc, sắm đồ khí giới, may lá cờ đề sáu chữ: “Phá cường địch, báo hoàng ân” rồi đem quân đi đánh giặc. Đánh chỗ nào quân giặc cũng phải lùi.

[10] Thiên Mạc là một khúc sông Hồng Hà ở vào địa hạt huyện Đông An, tỉnh Hưng Yên.

[11] Hiện nay thuộc phủ Khoái Châu (Hưng Yên) có làng Đông Kết ở vào trong cách xa bờ sông Hồng Hà. Hoặc ở phía tây gần bờ sông, ngày xưa có làng Tây Kết mà nay đã lở mất đi chăng?

(Xem tiếp kỳ sau)