Tự chủ thời đại – Nhà hậu Lê. Chương VI. Công việc họ Nguyễn làm ở Miền Nam

29/06/2005 06:48:03 PM

(Tiếp theo kỳ trước)

QUYỂN IV

TỰ CHỦ THỜI ĐẠI
(Thời kỳ Nam Bắc phân tranh)
(1528 – 1802)

NHÀ HẬU LÊ
Thời kỳ phân tranh (1533 – 1788)

CHƯƠNG VI
CÔNG VIỆC HỌ NGUYỄN LÀM Ở MIỀN NAM

Họ Nguyễn đã giữ riêng một cõi ở phía Nam, lập ra nghiệp chúa, lưu truyền đời nọ qua đời kia, bởi vậy cho nên chính trị, thuế lệ, binh lính, việc gì cũng tự sửa sang và xếp đặt lấy như là một nước tự chủ vậy.

1. QUAN CHẾ. Lúc họ Nguyễn chưa ra mặt chống nhau với họ Trịnh thì quan lại vẫn ở ngoài Bắc bổ vào nhưng mà từ khi chúa Sãi là Nguyễn Phúc Nguyên  không chịu nộp thuế cho nhà Lê, và đem quân chống giữ với quân họ Trịnh ở bắc Bố Chính thì quan viên đều do chúa Nguyễn đặt lấy cả.

Ở chính dinh là chỗ chúa đóng thì đặt tam ti để giúp chúa coi việc chính trị. Tang ti là: Xá sai ti, Tướng thần lại ti, Lệnh sử ti.

1. Xá sai ti giữ việc từ tụng văn án. Có quan Đô tri, Ký lục làm đầu.

2. Tướng thần lại ti giữ việc thu tiền thu thuế, chi phát lương thực cho quan các đạo: Có quan cai bạ làm đầu.

3. Lệnh sử ti  giữ việc tế tự, tết nhất và việc chi cấp lương cho quân ở chính dinh. Có quan Nha úy làm đầu.

Mỗi ti lại có quan Cai hợp, Thủ hợp  và các lại ti để làm mọi việc.

Ở ngoài các dinh, thì có nơi chỉ đặt có một Lệnh sử ti kiêm cả việc Xá sai li và Tướng thần lại ti, có nơi thì đặt Xá sai ti và Lệnh sử ti để coi việc quân dân, từ tụng, đinh điền, sổ sách, thuế khóa, v.v... nghĩa là tùy nơi quan trọng hay là không, mà thêm bớt quan viên.

Ở phủ huyện, thì đặt tri huyện, tri phủ, để coi việc từ tụng, thuộc hạ thì có đề lại, thông lại, chuyên việc khám xét. Lại có huấn đạo, lễ sinh, chuyên việc tế tự ở chỗ sở tại. Còn việc thu thuế thì đặt quan khác để coi về việc ấy.

Đến đời chúa Thượng Nguyễn Phúc Lan (1635 - 1648) lại đặt thêm chức nội tả, ngoại tả, nội hữu, ngoại hữu gọi là tứ trụ để giúp chúa trị dân.

Về đàng quan võ thì đặt chức chưởng dinh, chưởng cơ, cai cơ, cai đội để coi việc binh.

2. THI CỬ. Năm Đinh Hợi (1674) chúa Nguyễn mở khoa thi gọi là thi chính đồ và thi hoa văn.

Thi chính đồ chia ra làm ba kỳ: kỳ đệ nhất thi tứ lục, kỳ đệ nhị thi thơ phú, kỳ đệ tam thi văn sách. Quan tri phủ tri huyện làm sơ khảo, quan cai bạ, ký lục, vệ úy làm giám khảo. Những quyển đậu, thì chia ra làm ba hạng: hạng thứ nhất gọi là giám sinh được bổ làm tri phủ, tri huyện; hạng thứ nhì gọi là sinh đồ được bổ làm huấn đạo; hạng thứ ba cũng gọi là sinh đồ được bổ làm lễ sinh, hoặc làm nhiêu học.

Thi hoa văn thì cũng phải ba ngày, mỗi ngày chỉ phải làm có một bài thơ mà thôi. Ai đậu thì được bổ vào làm việc ở Tam ti.

Năm Ất Hợi (1695) Quốc chúa Nguyễn Phúc Chu (1691 - 1725) mở khoa thi ở trong phủ chúa, gọi là thi Văn chức và thi Tam ti. Thi Tam ti là thi Xá sai ti, thi Tướng thần lại ti và thi Lệnh sử ti. Thi Văn chức thì thi tứ lục, thơ phú, văn sách; thi Xá sai ti thì hỏi về việc binh lính, tiền lương, từ tụng; thi Tướng thần lại ti và Lệnh sử ti thì chỉ làm một bài thơ mà thôi.

Năm Canh Thân (1740), Vũ Vương Nguyễn Phúc Khoát (1738 - 1765) định lại phép thi: những người đậu kỳ đệ nhất gọi là nhiêu học, được miễn sai 5 năm; đậu kỳ đệ nhị và kỳ đệ tam thì được miễn sai chung thân; đậu kỳ đệ tứ gọi là hương cống, được bổ đi làm tri phủ, tri huyện.

Xem như vậy thì sự thi cử ở miền Năm đời bấy giờ còn sơ lược lắm.

3. VIỆC VÕ BỊ: Họ Nguyễn bấy giờ phải chống nhau với họ Trịnh cho nên phải lo việc võ bị hơn. Quân thì chia ra làm năm cơ gọi là: trung cơ, tả cơ, hữu cơ, tiền cơ, hậu cơ. Số quân độ chừng non ba vạn người.

Năm Tân mùi (1631) chúa Sãi lập ra sở đúc súng đại bác và mở trường bắn, trường tập voi, tập ngựa, cứ hằng năm luyện tập để phòng bị chiến tranh.

4. VIỆC THUẾ KHÓA. Điền thổ chia ra làm ba hạng để đánh thuế. Lại có hạng gọi là thu điền, khô thổ, nghĩa là ruộng đất xấu thì thuế đánh lại nhẹ hơn ruộng đất thường. Những công điền thì cấp cho dân cày cấy để nộp thuế; còn ai khai khẩn được đất hoang ra làm ruộng, thì cho là tư điền.

Thuế mỏ. Ở đất Quảng Nam, Thuận Hóa có mỏ vàng; ở đất Quảng Nghĩa có mỏ bạc; ở đất Bố Chính có mỏ sắt. Các mỏ ấy đều đánh thuế cả. 

Thuế xuất cảng nhập cảng. Lệ cứ những tàu ở Thượng Hải và ở Quảng Đông lại, thì phải nộp 3.000 quan, đến lúc đi phải nộp 300 quan. Tàu ở Ma Cao, ở Nhật Bản lại, thì phải nộp 4.000 quan, đến lúc đi phải nộp 400 quan. Tàu ở Tiêm La, ở Lã Tống lại, thì phải nộp 2.000 quan, đến lúc đi phải nộp 200 quan. Tàu ở các nước phương tây lại, thì phải nộp 8.000 quan, đến lúc về phải nộp 800 quan.

Thuế ấy chia ra làm 10 thành: 6 thành thì đem vào kho, còn 4 thành để nộp cho quan lại, binh lính đã coi về việc thu thuế.

5. SỐ TIỀN CHI THU TRONG NƯỚC. Năm Quí dậu (1753) Vũ Vương sai quan Chưởng thái giám là Mai Văn Hoan tính số vàng bạc và tiền thu vào phát ra mỗi năm là bao nhiêu .

Bấy giờ số tiền thì có năm thu vào được hơn 338.100 quan, mà phát ra mất hơn 364.400 quan; có năm được hơn 423.300 quan, mà phát ra mất hơn 369.400 quan. Vàng thì có năm thu được 830 lượng, có năm được 890 lượng. Bạc thì thứ giáp ngân (?) có năm thu được 240 lượng, có năm thu được 390 lượng; thứ dung ngân (?) có năm được 2.400 lượng, có năm được 1.800 lượng; thứ kê ngân (?) có năm được 10.100 đồng, có năm được 400 đồng, cũng có năm không có đồng nào.

Tính đổ đồng lái từ năm Bính dần (1746) đến năm Nhâm thân (1752) nghĩa là trong 7 năm, số vàng được 5.768 lượng, số giáp ngân được 9.978 lượng, số dung ngân được 14.276 lượng, số kê ngân được 21.150 đồng.

Từ đó trở đi mỗi năm phải làm sổ kê rõ ra trong năm vàng bạc và tiền thu vào và phát ra mất bao nhiêu, lệ cứ đến ngày mồng ba tháng giêng năm sau dâng lên để chúa xem.

Những tiền tiêu trong nước, thì có tiền đồng và tiền kẽm khắc hai chữ thái bình.

6. VIỆC GIAO THIỆP VỚI NƯỚC TIÊM LA. Tiêm La là một nước ở về phía tây nam sông Mê Kông dòng dõi người Thái sang ở đấy.

Cứ theo sử ta và sử Tàu thì đầu tiên gọi là nước Phù Nam. Đến quãng nhà Tùy và nhà Đường bên Tàu là vào quãng thế kỷ thứ sáu, thứ bảy thì đất Phù Nam chia ra làm hai: một nửa về phía đông có một dân tộc khác đến lập ra nước Chân Lạp còn một nửa về phía tây thì người Phù Nam ở gọi là nước Xích Thổ.

Vào quãng nhà Tống, nhà Kim (thế kỷ thứ XI, thứ XII) thì nước Xích Thổ lại chia ra làm hai: một nước gọi là La Hộc, một nước gọi là Tiêm.  Lúc nhà Nguyên làm vua bên Tàu (thế kỷ thứ XIII, thứ XIV) thì sử có chép hai nước ấy sang cống.

Về sau nước La Hộc gồm được cả nước Tiêm, mới gọi là nước Tiêm La Hộc. Đến đầu nhà Minh (Cuối thế kỷ thứ XIV) Vua nước ấy sang cầu phong bên Tàu, vua Thái Tổ nhà Minh mới phong là nước Tiêm La[1].

Nước Tiêm La lúc đầu còn nhỏ yếu, thường bị người Chân Lạp áp chế. Sau cường thịnh dần dần lên, rồi vào khoảng năm Vạn Lịch (1573-1620) nhà Minh nước Tiêm La lại đánh Chân Lạp mà hùng bá cả phương ấy.

Trong thời ấy vua Tiêm La là Phra Naroi dòng dõi nhà Ayouthia dùng một người Hi Lạp tên là Constantin Phaulcon làm tướng. Người ấy xin vua giao thiệp với nước Pháp. Bởi vậy năm 1620 mới có bọn sứ thần Tiêm La sang bái yết Pháp hoàng Louis XIV ở tại Versailles.

Thủa bấy giờ chúa Nguyễn còn đang khai sáng ở đất Phú Yên, Khánh Hòa, nhưng về sau chúa Nguyễn lấy hết đất Chiêm Thành, lại lân sang đất Chân Lạp. Người Tiêm La có ý muốn ngăn trở để giữ lấy Chân Lạp làm của mình. Nhưng vì thế chúa Nguyễn mạnh hơn, cho nên phải chịu để chúa Nguyễn sang bảo hộ Chân Lạp.

Tuy vậy nước Tiêm La thường hay dùng những người phản đối với vua Chân Lạp, rồi giúp binh lực cho về làm loạn trong nước. Nhiều khi quân ta phải sang đánh đuổi quân Tiêm La để giúp quốc vương Chân Lạp. Cũng có khi quân Tiêm La sang đánh ở đất Hà Tiên, như năm Ất vị (1715) người Chân Lạp là Nặc Thâm đem quân Tiêm La sang cướp phá, quan tổng binh Hà Tiên là Mạc Cửu phải bỏ thành mà chạy.

Quân ta và quân Tiêm La đã giao chiến nhiều lần, cho nên hai bên không thông sứ với nhau. Mãi đến năm Canh Ngọ (1750) đời chúa Nguyễn là Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát, thì mới thấy sử chép rằng chúa sai quân đem thư sang trách nước Tiêm La dung túng kẻ nghịch thần để làm loạn nước Chân Lạp.

Năm Ất Hợi (1755) nước Tiêm La sai sứ sang xin đừng đánh thuế những thuyền của nước ấy sang buôn bán ở đất chúa Nguyễn. Chúa đáp thư lại rằng thuế ấy là quốc lệ đã đặt ra không thể bỏ đi được.

Năm Đinh Hợi (1767) quân nước Diến Điện sang đánh Tiêm La bắt được vua nước ấy là Phong Vương[2] và con là Chiêu Đốc cùng mấy vạn người dân đem về Diến Điện. Còn những người con của Phong Vương là Chiêu Xỉ Khang thì chạy sang Chân Lạp và Chiêu Thúy thì chạy sang Hà Tiên.

Bấy giờ nước Tiêm La không có vua, chức Phi Nhã (Phya) đất Mang Tát là Trịnh Quốc Anh bèn khởi binh tự lập làm vua. Trịnh Quốc Anh là người Triều Châu, tỉnh Quảng Đông, cha tên là Yển sang ở đất Tiêm La làm trưởng ở Mang Tát. Yển chết, Trịnh Quốc Anh lên nối nghiệp xưng là Phi Nhã, là một chức xã trưởng vậy.

Trịnh Quốc Anh lên làm vua rồi sai sứ sang bắt vua Chân Lạp là Nặc Tôn phải sang cống. Nặc Tôn lấy lẽ rằng Trịnh Quốc Anh không phải là dòng dõi người Tiêm La, không chịu cống.

Vua Tiêm La lấy điều ấy làm hiềm, sai tướng là Bôn Ma đem người Chân Lạp tên là Nặc Non về đánh Nặc Tôn. Nặc Tôn giữ vững các nơi, quân Tiêm La không làm gì được lại phải rút về.

Trịnh Quốc Anh biết con vua cũ là Chiêu Thúy còn ở Hà Tiên, sợ ngày sau sinh ra biến loạn, bèn đến tháng 10 năm Tân Mão (1771) đem binh thuyền sang vây đánh Hà Tiên. Quan tổng binh là Mạc Thiên Tứ giữ không nổi phải bỏ thành chạy.

Vua Tiêm La để tướng là Trần Liên ở lại giữ Hà Tiên rồi tiến quân sang đánh Chân Lạp. Quốc vương là Nặc Tôn phải bỏ chạy. Vua Tiêm La đóng quân ở thành Nam Vang và lập Nặc Non lên làm vua Chân Lạp.

Tháng 6 năm sau (1772) chúa Nguyễn sai quan tổng suất là Nguyễn Cửu Đàm lĩnh chức Điều khiển đem binh thuyền đi đánh quân Tiêm La. Quân của Nguyễn Cửu Đàm tiến sang đến Nam Vang, quân Tiêm La bỏ chạy về Hà Tiên, Nặc Non cũng chạy về Cầu Bột.

Nặc Tôn lại về làm vua Chân Lạp.

Vua Tiêm La về đến Hà Tiên sai người đưa thư sang gọi Mạc Thiên Tứ về để giảng hòa. Mạc Thiên Tứ không chịu. Vua Tiêm La bèn để Trần Liên ở lại giữ Hà Tiên, rồi bắt con gái Mạc Thiên Tứ và Chiêu Thúy đem về nước.

Năm sau Mạc Thiên Tứ thấy việc không xong, bèn sai người sang Tiêm La xin hòa. Vua Tiêm La gọi Trần Liên về và cho người con gái của Mạc Thiên Tứ về Hà Tiên. Còn Chiêu Thúy thì đem giết đi.

Từ đó Mạc Thiên Tứ lại về giữ đất Hà Tiên.

7. LẬP DINH ĐỊNH PHỦ. Lúc đầu, Nguyễn Hoàng mới vào trấn đất Thuận Hóa thì đóng dinh ở làng Ái Tử  (thuộc huyện Đăng Xương, gần tỉnh lỵ tỉnh Quảng Trị). Được 13 năm sau (1570) Nguyễn Hoàng lại dời vào làng Trà Bát ở huyện ấy, tức là Cát Dinh. Đến năm Bính Dần (1626) chúa Sãi là Nguyễn Phúc Nguyên sắp sửa chống nhau với chúa Trịnh, mới dời dinh vào làng Phúc An  (thuộc huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên bây giờ) và đổi chỗ tư sở là phủ.

Năm Bính Tí (1636) chúa Thượng là Nguyễn Phúc Lan lại dời phủ vào làng Kim Long  (thuộc huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên).

Năm Đinh Mão (1687) chúa Nguyễn là Nguyễn Phúc Trăn đem phủ về làng Phú Xuân tức là đất kinh thành bây giờ, gọi là chính dinh. Chỗ phủ cũ để làm Thái Tông miếu, thờ chúa Hiền.

Năm Giáp Tí (1744) Vũ Vương mới xưng vương hiệu đổi phủ ra làm điện, sửa sang phép tắc, và định triều phục. Lại chia nước ra làm 12 dinh.

1. Chính dinh (Phú Xuân)

2. Cựu dinh   (Ái Tử)

3. Quảng Bình dinh  

4. Vũ Xá dinh

5. Bố Chính dinh

6. Quảng Nam dinh

7. Phú Yên dinh - đất Chiêm Thành       

8. Bình Khang dinh - đất Chiêm Thành

9. Bình Thuận dinh - đất Chiêm Thành

10. Trấn Biên dinh - đất Chân Lạp

11. Phiên Trấn dinh - đất Chân Lạp

12. Long Hồ dinh  - đất Chân Lạp

Dinh nào cũng đặt quan Trấn thủ, quan Cai bạ, quan Ký lục để coi việc cai trị. Còn phủ Quảng Nghĩa và phủ Qui Nhơn thì thuộc về tỉnh Quảng Nam, cho nên mỗi phủ đặt riêng quan Tuần phủ và quan Khám lý để coi mọi việc. Đất Hà Tiên thì đặt là Trấn, có quan đô đốc cai trị.

***

Tóm lại mà xét, họ Nguyễn làm chúa miền Nam, nhưng trước thì vẫn giữ chức vua Lê phong cho, mãi đến đầu thế kỷ thứ XVIII năm Nhâm Ngọ (1702) Nguyễn Phúc Chu mới sai người sang cống vua nhà Thanh để xin phong làm vua, nhưng Thanh triều nói rằng nước Nam còn có họ Lê không phong được cho họ Nguyễn. Việc ấy lại im đi. Nguyễn Phúc Chu bèn xưng là Quốc chúa và đúc cái ấn Đại Việt Quốc Nguyễn Chúa Vĩnh Trấn Chi Bảo để làm cái truyền quốc bảo, đến đời vua Thế tổ mới thôi. Đến năm Giáp Tí (1744) Nguyễn Phúc Khoát mới xưng vương hiệu và đổi lại chế độ, định ra triều nghi.

Bấy giờ đất phía Nam tuy độc lập, nhưng họ Nguyễn chỉ xưng chúa, chứ không xưng vua và vẫn không đặt quốc hiệu. Nhưng người ngoại quốc thường gọi đất chúa Nguyễn là Quảng Nam quốc. Đấy là vì ở Quảng Nam có phố Hội An (Faifo) là chỗ người Tàu và người các nước ra vào buôn bán, cho nên mới lấy tên Quảng Nam mà gọi.

Còn những công việc họ Nguyễn làm ở phía Nam quan trọng cho nước Nam ta hơn cả, là việc mở mang bờ cõi, khiến cho nước lớn lên, người nhiều ra, và nhất là chiêu mộ những người nghèo khổ trong nước đưa đi khai hóa những vùng đất phì nhiêu bỏ hoang làm thành ra Nam Việt bây giờ phồn phú hơn cả mọi nơi.

--------------------------------

* Chú thích:

[1] Nước Thái Lan ngày nay.

[2] Vua nước Tiêm La bấy giờ có bệnh hủi, cho nên sử gọi là Phong Vương.

(Xem tiếp kỳ sau)